Tác giả trẻ Hạnh Vân tên thật là Phạm Thị Thanh Vân, sinh
năm 1980 tại Đồng Nai. Hiện là giáo viên Trường THPT Vĩnh Cửu, hội viên Hội
Văn học Nghệ thuật Đồng Nai. Đã xuất bản: tập thơ Ru miền cổ tích, tập truyện
ngắn Quán ven sông… Xin giới thiệu truyện ngắn Quán ven sông của chị.
* * *
Huệ bê khay nước đi lướt qua bàn số năm, cô gắng đi thật
nhanh nhưng vẫn kịp nghe những lời yêu thương thốt ra từ người đàn ông đứng tuổi
đang vùi mặt vào mái tóc bồng bềnh của cô gái trẻ bên cạnh. Lời yêu hổn hển bị
đứt quãng ngay sau đó bởi một nụ hôn dài và rất sâu. Khay nước trên tay Huệ hơi
chao nghiêng, không phải vì Huệ bước hụt chân mà vì cô biết rõ có một mối tình
đang giãy chết. Cô bé tóc mây còn quá ngây thơ để hiểu rằng những lời yêu kia
đã xao xác tan mau, tan ngay sau khi chúng vừa rời khỏi môi người đàn ông từng
trải.
Cũng có lúc Huệ đã từng rụt rè đặt niềm tin vào những lời
yêu chân thành thốt ra từ những người con trai tử tế, nhưng niềm tin ấy đã vỡ
tan rất nhanh mà không cần phải có thời gian trải nghiệm lâu dài. Những chàng
trai từng thề thốt yêu Huệ đến suốt đời, bất chấp mọi hoàn cảnh đã vội vã quay
lưng ngay trong ngày đầu tiên ra mắt gia đình Huệ. Huệ buồn nhưng không trách,
bởi cô biết ai mà không vừa thương vừa sợ khi nhìn cảnh cậu em trai dị dạng ngơ
ngẩn của Huệ bò lồm ngồm trong nhà, không có gì vui cũng hệch miệng ra cười,
không có gì buồn cũng kêu gào khóc lóc; ai mà không vừa xót vừa lo khi biết ba
mẹ Huệ đã sinh tới tám người con nhưng giờ chỉ còn lại hai người, và chỉ duy nhất
mình Huệ là lành lặn. Tình thương xót có nhiều mấy, lớn mấy cũng không vượt qua
được nỗi lo sợ, những người vừa mới thề thốt yêu thương Huệ đến suốt đời đã bắt
đầu nghĩ đến viễn cảnh phải chăm lo cho cậu em dị hình dị dạng kia nếu cưới Huệ,
và không có gì chắc chắn rằng những đứa con do Huệ sinh ra sẽ không dị dạng như
thế. Vậy nên dù buồn Huệ vẫn ra vẻ thản nhiên khi nói: “Giờ thì anh biết vì sao
em không muốn lấy chồng rồi phải không? Em sẽ ở vậy để lo cho em trai... rồi anh
sẽ gặp một cô gái khác tốt hơn em”. Và khi nghe người con trai ấp úng ngập ngừng:
“Anh... khó mà tìm được người... như em”, Huệ chỉ thản nhiên cười, lòng đã sẵn
sàng cho một cuộc chia ly.
Cứ thế, lần lượt những người con trai vừa mới hăm hở đến với
Huệ đã vội vã tìm cách thoát lui, bắt đầu bằng những lý do hết sức bình thường:
“Dạo này thi cử nên anh bận quá”, hoặc “anh phải đi công tác xa”, hoặc “ba mẹ bắt
anh phải cưới cô bé hàng xóm”... Chỉ có một mình Hùng là lì lợm ở lại, dù Huệ
đã tìm mọi cách trốn chạy, dù có lần thằng em ngớ ngẩn của Huệ đã níu ống quần
và cắn vào bắp chân anh đến tươm máu, dù ba mẹ anh đã dọa sẽ từ con... Hùng đã
thắp lại trong lòng Huệ niềm tin về một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu có thể
vượt qua mọi thử thách, nhưng cũng chính Hùng đã dội một gáo nước lạnh vào ngọn
lửa niềm tin vừa mới được thắp lên ấy khi anh quay lưng, bỏ rơi Huệ cùng đứa
con gái đỏ hỏn, đầu phình to nhưng tay chân teo quắt, tiếng khóc thảm thiết như
mèo kêu...
Ông khách kì dị kia thì không cần thời gian dài để chấm dứt
tình cảm. Ông ta sẽ chia tay một người phụ nữ ngay sau lần đầu đặt nụ hôn lên
môi người phụ nữ ấy, dù cho trước đó ông đã tỏ ra rất nâng niu trân trọng...
Cô bé tóc mây là người phụ nữ thứ sáu ở bên ông ta, tính từ khi ông trở thành
khách ruột của quán cà phê Lam Huệ, và Huệ biết chắc chắn từ mai người thứ sáu
sẽ không còn đến quán Lam Huệ nữa.
Quả đúng như Huệ suy đoán, sau một đêm không biết ông ta ở
đâu và một ngày không biết ông ta làm gì, buổi chiều khi nắng bắt đầu phai lạt
và gió từ sông thổi về mát rượi, ông kì dị đến Lam Huệ, một mình. Và Huệ lại
câm lặng đặt trước mặt ông ly cà phê đen sánh. Công việc không cho phép Huệ tò
mò hỏi han chuyện riêng tư của khách, dù là khách quen, nên Huệ chỉ có thể biết
được ông khách ấy là một Việt kiều thông qua những cuộc trò chuyện điện thoại bằng
tiếng nước ngoài mà cô nghe lõm bõm chữ được chữ mất, chữ hiểu chữ không. Từ
cái thông tin ít ỏi ấy, Huệ đoán vợ con ông khách đang ở Mĩ, ông ta xa gia đình
nên cô đơn, muốn có một người phụ nữ bên cạnh để chuyện trò cho bớt cái cảm
giác lẻ loi đơn độc. Nhưng lửa rơm thể nào cũng bén vào nhau, lúc ham muốn đàn
ông thức dậy cũng là lúc ông quyết định chấm dứt chuyện tình cảm vì... nghĩ tới
vợ con. Suy đoán này có vẻ hơi ngô nghê nhưng Huệ chưa nghĩ ra được một nguyên
do nào hợp lý hơn để giải thích cho cái kiểu chinh phục phụ nữ nửa vời của ông.
Dù sao thì Huệ cũng không có ác cảm với ông khách kì dị ấy,
dù cho đôi mắt của những người phụ nữ xinh đẹp luôn ngỡ ngàng và mọng nước
trong buổi chiều cuối cùng bên ông ở Lam Huệ. Ngược lại, mắt ông lúc nào cũng
ráo hoảnh, khô khốc. Những lúc một mình, ông hướng cái nhìn đau đáu ra sông,
nhìn mà như không nhìn gì cả, không biết nắng đã tắt, không thấy cây cầu sắt xa
xa kia đã rực đèn, không hay đêm đã buông một bức màn huyền mặc trên dòng sông
mênh mông trước mặt. Chỉ khi Huệ nhắc tới giờ quán đóng cửa, ông mới giật mình
hấp tấp rời Lam Huệ, vội vã như vừa lỡ mất một cuộc hẹn hò đâu đó. Mỗi lần nhìn
ông như vậy, không hiểu sao Huệ lại liên tưởng tới một nỗi đau nào đó, đau đến
khô quắt người, đến kiệt cùng nước mắt.
Huệ đã từng khóc rất nhiều, khóc khi thằng em ngô nghê định
bốc bỏ vào miệng cái thứ nhoe nhoét nó vừa thải ra nền; khóc khi nhìn vào đôi mắt
không thể khép chặt của cha, một người lính già trở về từ những cánh rừng nhiễm
đầy chất độc diệt cỏ, khóc vì thương mẹ ngày một quắt queo khô héo, gương mặt
không còn dấu vết gì của một cô Lam nổi tiếng xinh đẹp thời xuân sắc... Và cơn
mưa nước mắt cứ tuôn ào ạt không ngừng bắt đầu từ tiếng hét thất thanh của chị
hộ sinh trong bệnh viện - khi cơn đau bụng dữ dội của Huệ vừa kết thúc cũng là
lúc Huệ rơi vào một cơn đau khác khủng khiếp gấp trăm lần. Huệ tưởng cơ thể
mình có thể tan ra cùng nước mắt. Nhưng rồi Huệ vẫn tồn tại, và Huệ phải sống
cho cả phần của Hùng khi anh ta sợ hãi trốn chạy khỏi đứa bé. Nếu như nước mắt
có thể làm dịu những cơn đau thân xác của đứa con gái tật nguyền thì Huệ sẽ tắm
luôn cho con bằng nước mắt của mình, nhưng không phải vậy, nếu có giọt nước mắt
nóng hổi nào rớt xuống vùng da đỏ hỏn là đứa trẻ lại khóc thét lên. Vậy nên Huệ
không thể khóc, nước mắt chẳng có tác dụng gì cả. Huệ tập nuốt nước mắt vào
lòng cho đến khi mắt cô khô khốc. Ngày con gái thôi đau đớn, cô muốn khóc một
trận đã đời nhưng nước mắt đã kiệt cùng...
*
Sau ba tuần đơn lẻ, ông khách kì dị lại đến Lam Huệ với một
phụ nữ khác - Người phụ nữ thứ bảy. Chị ta có lẽ là một giáo viên nên nhiều khi
lướt thướt cả áo dài vào quán. Người thứ bảy không trẻ và cũng không xinh như
những cô gái trước, gương mặt chị hơi gầy, nhợt nhạt và nụ cười có vẻ hơi héo
úa. Huệ thấy tim mình thót lên một cái, không biết người phụ nữ mỏng manh ấy có
chịu nổi không khi bị người đàn ông kia quay lưng lại chỉ sau một nụ hôn dài
say đắm?
Người thứ bảy dần trở thành khách quen của Lam Huệ. Chị hay
đến quán vào buổi chiều cùng người đàn ông từng trải, hoặc chỉ đến một mình để
đọc sách, đón gió sông những hôm không có tiết dạy. Những lúc ấy, chị thường mặc
một chiếc áo thun nhạt màu giản dị, tóc cột cao, trông trẻ trung và sáng hơn so
với lúc chị diện áo dài tóc xõa. Nhiều lần Huệ muốn tiếp cận chuyện trò với chị,
để bâng quơ nói về người đàn ông đứng tuổi chị vừa quen, rằng ông ta còn có gia
đình, rằng ông ta đã chinh phục rồi quay lưng với rất nhiều phụ nữ, rằng mối
quan hệ này rồi cũng sẽ chẳng đi tới đâu... nhưng Huệ kịp dừng lại. Mẹ Huệ khi
trao lại quán cho con gái đã luôn miệng dặn dò con phải kín tiếng, tuyệt đối
không được thọc mạch can thiệp vào những chuyện riêng tư của khách. Vậy nên cả
khi chứng kiến một gã phong trần nào đó hôm kia vừa tán tỉnh cô này, hôm qua
nói yêu thương cô khác và hôm nay lại thề thốt anh chỉ có mình em với một cô
khác nữa, Huệ vẫn rất lịch thiệp với gã và cả người tình mới của gã, gương mặt
Huệ vẫn giữ được vẻ thản nhiên bình lặng, không gợn một thoáng giễu cợt nào. Bằng
cách đó Huệ đã giữ lại được nhiều khách quen cho quán, dù cách bài trí của Lam
Huệ vẫn sơ sài, giản dị trong khi các quán cà phê ven sông gần đó đã khoác lên
mình những cái áo sang trọng hào nhoáng.
Hôm qua, một ông khách quen đã níu tay Huệ, hỏi:
- Em ơi sao Lam Huệ không sửa sang lại cho nó hoành tráng,
như quán Hà Vân bên cạnh kìa?
- Vậy chớ Lam Huệ hoành tráng rồi thì anh có còn đến nữa
không? - Huệ thản nhiên hỏi lại dù đã biết trước câu trả lời.
- Đến chớ, đến chớ, miễn còn có em ở đây là anh còn đến hoài
hoài...
Huệ cười, tiếng cười mỏng nhẹ như gió thoảng. Nhà thơ
Đinh Huyền Phan hồi chưa nổi tiếng cũng từng nói với Huệ những ý tương tự vậy,
nhưng câu từ trau chuốt đẹp đẽ hơn rất nhiều - anh đã nói bằng ngôn ngữ của thơ
ca. Những câu thơ thấp thoáng đôi mắt buồn, ngón tay thon, bờ vai mỏng (mà Phan
nói là viết về Huệ) không làm cho lòng cô xao xác, nhưng những bài thơ anh viết
về đứa trẻ khuyết tật, về nỗi đau của nạn nhân chịu di chứng bởi chất độc da
cam đã khiến Huệ quay quắt lòng. Dường như ngoài ba mẹ, chỉ có mình Phan mới chạm
thấu đến tận cùng nỗi đau của Huệ. Không chỉ ngồi quán ngắm sông và ngắm... cô
chủ quán, nhà thơ giàu tình cảm ấy còn thường xuyên lui tới nơi ở của hai mẹ
con Huệ. Mỗi lần nhìn anh nâng niu ẵm bồng đứa nhỏ dị dạng - điều mà cha đứa bé
chưa bao giờ thực hiện - lòng Huệ lại cuộn lên một cảm giác rất lạ. Huệ né tránh
ánh mắt ấm áp của Phan và chỉ tập trung nhìn vào ngón tay đeo nhẫn của anh, để
nhắc mình nhớ rằng anh đã thuộc về người khác, rằng mình không được phép xao động...
Có lẽ người phụ nữ thứ bảy của ông khách kì dị cũng đang dằn
vặt khổ sở với những cảm xúc rối bời phức tạp như thế.
*
Cái nắng vàng óng như mật đã bắt đầu bị xua đuổi thường
xuyên hơn bởi những cơn mưa ùa về bất chợt. Khách đến Lam Huệ cũng bắt đầu thưa
hơn vì người ta không còn phải nhờ đến gió và hơi nước từ sông để xua đuổi cơn
nóng bức. Huệ vẫn chăm chút cái quán nhỏ theo cách riêng của mình, cô gắng giữ
cách bài trí nguyện vẹn như hồi mẹ còn là chủ của Lam Huệ. Việc này thực
ra còn nhọc công hơn cả việc thay đổi làm mới cho quán, bởi để tìm một cái ghế
đồng bộ, một dáng bonsai tương tự hoặc một bộ ly tách đồng hoa văn thay thế cho
những cái cũ bị hư hỏng, bị khô héo, bị sứt sẹo không hề đơn giản. Nhưng Huệ vẫn
cố gắng. Cô muốn những vị khách quen dù có rời xa Lam Huệ bao lâu đi nữa thì
khi trở lại sẽ vẫn tìm được cảm giác bình yên thân thuộc như ngày nào. Việc gặp
lại những dáng ngồi quen, những gương mặt quen, những cách uống quen đã giúp Huệ
vơi đi phần nào cảm giác lẻ loi cô độc và ngơ ngác giữa đời...
Ông khách kì dị và người phụ nữ thứ bảy của ông vẫn đều đặn
đến quán mỗi xế chiều, bất kể trời mưa hay nắng. Khác với những người tình trước
của ông, người thứ bảy rất ít nói, chị chỉ lặng lẽ ngồi bên ông, để yên tay
mình trong tay ông và cùng ông hướng cái nhìn mênh mông ra sông nước. Mùa mưa
đi qua rồi mùa mưa trở lại, cặp đôi kì lạ vẫn lặng lẽ bên nhau, vẫn chưa có nụ
hôn nào đặt dấu chấm cho mối tình lặng lẽ ấy. Nhìn hai bờ vai nghiêng tựa vào
nhau, Huệ bỗng ước gì mình có thể ở vào vị trí của chị, để được vùi bàn tay đầy
gân xanh của mình trong bàn tay thô ráp kia, và để ru lòng bình yên thanh thản,
không gợn chút nhục dục nào, như chị.
Nhà thơ Đinh Huyền Phan trước kia cũng thường nắm tay Huệ,
bàn tay của Phan mềm và ấm. Nhưng rồi một ngày Phan không nắm tay mà ôm ghì lấy
Huệ, cuống quýt gắn lên môi Huệ nụ hôn gấp gáp sau câu nói hổn hển: “Bài thơ Nỗi
đau da cam của anh đoạt giải Nhất em à. Là giải Nhất đó. Cám ơn em, cám ơn
em... nhiều lắm...”. Huệ ngơ ngác, Phan cám ơn về việc gì? Không lẽ về việc Huệ
đã sinh ra một đứa trẻ dị dạng, tạo được cảm xúc mạnh mẽ cho anh sáng tác? Người
Huệ lạnh đi, tê tái. Phan thậm chí không kịp hỏi thăm đứa trẻ, sau khi anh trở
về từ trại sáng tác ở Lâm Đồng, không kịp nhận ra cơ thể Huệ đang cứng đơ lạnh
ngắt, và tất nhiên cũng không kịp nhìn thấy khuôn mặt biến dạng của đứa trẻ hiện
mồn một trong tấm di ảnh trên bàn thờ nghi ngút khói nhang... Niềm vui như cơn
gió thốc Phan đến rồi vội vã cuốn anh đi. Hình ảnh đẹp về Phan trong lòng Huệ
cũng bị cuốn trôi theo cơn gió lạnh lùng ấy, để rồi vài năm sau gặp lại Phan
lúc này đã là nhà thơ nổi tiếng, Huệ có thể thản nhiên cười khi nghe anh giới
thiệu mình với cô bé chân dài bên cạnh: “Đây là Huệ, là nguồn cảm xúc của anh
khi viết bài Nỗi đau da cam... Em muốn viết được những bài thơ lay động lòng
người thì phải chịu khó xông xáo đi vào thực tế, phải biết hòa mình vào niềm
vui nỗi buồn của nhân vật trong tác phẩm...”
Huệ không trách Phan, giống như trước đó cô đã không hề
trách Hùng. Phan là một nhà thơ, đâu đó còn rất nhiều vẻ đẹp cần anh ngợi ca,
còn rất nhiều nỗi đau cần anh chia sẻ, còn rất nhiều cái xấu cái ác cần anh phê
phán... anh không thể quẩn quanh mãi bên nỗi đau của Huệ được. Hùng cũng vậy,
anh ta cũng có nhiều khát vọng và cũng xứng đáng có một gia đình êm ấm với những
đứa con khỏe mạnh. Làm sao Huệ có thể trách được những người đã từng nắm lấy
tay mình bằng một bàn tay sẻ chia ấm áp?
*
Gió từ sông thổi vào lạnh ngắt, sấm chớp ì đùng xa xa... Trời
chuyển mưa nên khách lần lượt rời Lam Huệ, vội vàng. Thoáng chốc, quán chỉ còn
lại hai bờ vai im sẫm bên nhau ở bàn số năm quen thuộc. Huệ loay hoay dọn dẹp
bàn bên cạnh, suýt làm rớt cái ly thủy tinh khi nghe giọng trầm khàn của người
đàn ông vang lên:
- Rồi em sẽ sinh ra đứa con tật nguyền...
- Không, em sẽ không sinh con, một mình bé Thương nhà anh là
đủ rồi... - Giọng người phụ nữ mỏng nhẹ, nhưng dứt khoát.
Huệ nép mình bên chậu Mai Chiếu Thủy, lắng tai nghe những tiếng
nói hụp hửi xô dạt trong gió. Huệ không muốn nghe lén, nhưng không hiểu sao
chân Huệ lại dính chặt xuống sàn, không thể bước được bước nào nữa.
- Con anh sẽ hét lên giữa đêm và đập đầu vào tường, em sẽ
không bao giờ còn có được một giấc ngủ trọn vẹn. - Giọng người đàn ông âm âm
như được vọng lại từ một thế giới xa lạ nào đó, nghe rờn rợn.
- Em chịu được tất cả... miễn là... có anh... ở bên. - Gương
mặt người phụ nữ vẫn dứt khoát, nhưng cơn gió lạnh vừa thốc tới đã xé giọng nói
mỏng như hơi thở của chị ra làm nhiều mảnh, bời rời...
- Mẹ của con bé còn không chịu nỗi huống gì người khác. - Giọng
người đàn ông bỗng to hơn bình thường, vừa chua chát, vừa giễu cợt lại vừa đau
đớn, hình như giọng nói cũng bị thương.
- Em đừng bao giờ nghĩ đến chuyện đó nữa, vậy nghen!
Người đàn ông đứng dậy lao vội ra ngoài, bỏ mặc đôi vai đang
hóa đá bên cạnh. Cái dáng to cao dềnh dàng của ông như tan ra dưới những hạt
mưa buốt lạnh và chảy ào vào một hố đêm sâu hun hút...
Huệ ngơ ngác, chuyện tình thứ bảy của ông kì dị vừa kết thúc
mà không cần đến dấu chấm của một nụ hôn...
*
Hai tuần ông kì dị không đến quán mà Huệ tưởng như là hai
tháng. Câu chuyện Huệ nghe được hôm ấy khiến cô cảm thấy lo lắng cho ông kì dị
hơn là chị thứ bảy. Ông ta thật tội nghiệp khi không dám đón nhận hạnh phúc vì
ông đang có một đứa con khuyết tật. Chiều nào Huệ cũng bồn chồn ngóng về phía
bàn số năm, cũng giật thót mình khi có người khách xa lạ nào ngồi vào nơi ấy...
Tới ngày thứ mười sáu thì ông kì dị trở lại Lam Huệ, một
mình. Huệ thở phào, may quá, vậy là ông ta không sao.
Khi cho cà phê vào phin, Huệ đã làm vương vãi một ít bột cà
phê ra bàn, tay cô đang luống cuống...
Huệ đặt ly cà phê đặc sánh lên bàn số năm cùng với một thẩu
đường thủy tinh nho nhỏ. Ông khách kì dị thích một thẩu đường hơn là những túi
đường bao bằng giấy đẹp đẽ. Thường thì ông giữ nguyên vị cà phê, không đụng đến
một hạt đường nào, nhưng thỉnh thoảng vì một nỗi đắng đót nào đó trào dâng nghẹt
lòng, ông trút luôn cả thẩu đường vào ly của mình... Huệ ngạc nhiên về điều đó,
nhưng cô vẫn lặng lẽ đáp ứng sở thích kì dị của ông, cũng như cô đã thuộc lòng
và luôn chiều theo những sở thích riêng của các vị khách quen thuộc khác.
Huệ không hình dung được nếu mình sửa sang nới rộng quán thì
cuộc sống sẽ như thế nào. Chắc chắn Huệ phải cần đến một đội ngũ nhân viên phục
vụ biết chào khách một cách lịch thiệp, biết đặt khay nước trên một bàn tay và
di chuyển thật nhanh, biết nhoẻn cười với khách bằng những nụ cười được lập
trình sẵn, như rô bốt... Nhưng lúc đó Huệ sẽ làm gì khi mỗi ngày không còn được
pha cho ông kì dị một ly cà phê sánh đặc, không được đem ra cho cô bé tóc tém
quen thuộc kia ly cam vắt không đường và nhận lại một nụ cười rất sáng - nụ cười
mà con gái Huệ không bao giờ có được? Và Huệ biết gửi nỗi nhớ, gửi sự chờ đợi
vào đâu khi những gương mặt ngoài kia trở nên nhòe mờ xa lạ?
Không còn người thân nên Huệ đành vu vơ níu những gương mặt
quen trong một không gian quen, để thấy mình không đến nỗi bị rời ra, ngơ ngác,
lạc lõng giữa đời...
Gió lồng lộng rượt đuổi nhau trên mặt sông và nghịch ngợm
ném từng cuộn hơi nước mát lạnh vào cái quán đã vắng tanh. Ông kì dị giống như
một bức tượng im lìm hướng cái nhìn đau đáu ra sông. Thay vì nhắc tới giờ quán
đóng cửa như trước kia, Huệ đem ra cho ông bình trà nóng khác. Cô ngạc nhiên
khi thấy gương mặt ông già đi khủng khiếp, nếp nhăn xếp hàng ngang trên trán, hốc
mắt hõm sâu. Huệ rụt rè ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh, ngập ngừng:
- Lẽ ra... ông phải giữ chị ấy...
Huệ chưa bao giờ nói về những chuyện riêng tư của khách như
thế này nên cô ngượng nghịu và thấy mình vô duyên tệ. Huệ dợm đứng lên thì cái
giọng run rẩy khác thường của ông níu cô lại:
- Bill... chết rồi...
Huệ gai người. Ông kì dị xoay hẳn người về phía Huệ để nhắc
lại:
- Thằng Bill, thằng bạn tôi chết rồi... Lẽ ra tôi cũng phải
chết... nhưng tôi vẫn sống... Có khi sống còn khổ hơn cả chết cô có biết không?
Huệ tròn mắt nhìn ông, Huệ cũng đã đôi lần muốn tìm sự thanh
thản bằng cái chết nên hiểu cảm giác ấy, nhưng cô lại hỏi ngập ngừng:
- Tại sao... lại muốn chết ạ?
Gương mặt ông kì dị co lại, nhăn nhúm:
- Cô còn trẻ nên không biết được đâu, chúng tôi đáng chết...
Ông vớ lấy bình trà, tay phải của ông run run nên nước trà
trượt qua miệng ly và rót thẳng xuống... tay trái của ông. Huệ vội vàng đỡ lấy
bình trà. Ông kì dị không để tâm đến vùng da đỏ rát trên mu bàn tay, mặt ông vẫn
nhăn nhúm trông rất khổ sở.
- Chúng tôi đã giết người đấy... không phải một mà rất nhiều
người... Giá như Chúa trừng phạt tôi thay vì con gái tôi thì hay biết mấy. Con
bé tội nghiệp, nó phải gánh tội thay cho cha nó...
Huệ thấy người mình run lẩy bẩy như lên cơn sốt, cô lắp bắp
lặp lại từ giết người với vẻ kinh sợ. Ông kì dị nhìn xoáy vào mắt Huệ, giọng
nói như hụt hơi:
- Ừ, vậy đấy. Chúng tôi giết người mà không biết là mình
đang giết người... Tôi thề! Khi bay trên những cánh rừng nhiệt đới miền Trung,
tôi tưởng đó chỉ là thuốc diệt cỏ bình thường...
Ông kì dị lại hướng ánh nhìn đau đáu ra sông, như ông đang
nói chuyện với sông chứ không phải với Huệ.
- Tụi nó mượn tay tôi giết người, giết con gái tôi, và giết
cả tôi nữa... Sống gì cái thằng tôi từng này tuổi mà chưa bao giờ được nghe một
tiếng gọi ba?
Câu cuối cùng của ông nghe như tiếng gió rít qua khe cửa hẹp,
Huệ rùng mình, ngôn từ của cô lộn xộn nháo nhào không thể sắp thành một câu trọn
vẹn:
- Vậy là... ông là... hồi trước...
- Là phi công trong không lực Việt Nam Cộng hòa.
Sân bay Biên Hòa có cái kho hóa chất khủng khiếp… Cỏ cây tới giờ còn không mọc
nổi huống chi con người...
Mồ hôi Huệ rịn ra như tắm trong khi cơ thể cô lạnh ngắt, run
cầm cập. Ông kì dị bỗng giật thót mình nhìn đồng hồ rồi vội vã đứng dậy lao ra
ngoài, ném lại phía sau câu nói hụt hơi, gấp gáp:
- Con bé giờ này hay lên cơn la hét đập đầu vào tường, một
mình bà vú không giữ nổi...
*
Quán Lam Huệ đóng cửa suốt một tuần lễ vì Huệ ốm sốt một trận
li bì. Ngày thứ tám Huệ đi lại được, cô loanh quanh tới lui một mình trong quán
vắng, nâng niu từng cái lá cây, ve vuốt từng đồ vật trang trí nho nhỏ quen thuộc.
Từ ngày mai, quán Lam Huệ sẽ thay đổi, sẽ trút bỏ chiếc áo giản dị ngày cũ để
khoác lên người một cái áo mới, hào nhoáng, đẹp đẽ và sang trọng... Biết đâu lợi
nhuận từ một Lam Huệ mới sẽ giúp được nhiều hơn cho những nạn nhân da cam đang
lay lắt sống nhọc nhằn?
Huệ lặng thầm tiễn biệt những gương mặt quen. Những người
yêu thích sự mộc mạc giản dị của Lam Huệ cũ rồi sẽ không quay trở lại, cũng
đành... Chớ Huệ biết làm sao khi ngày ngày chạm mặt với một người từng tham gia
gieo rắc cái chết xuống những người thân yêu của mình, mà mình thì không thể tạt
vào mặt ông ta một ly nước nóng, không thể đưa một ánh nhìn thương hại hoặc chỉ
đơn giản là nói một câu trách móc?
HẠNH VÂN
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét