Ngôi nhà sàn gỗ màu xanh đối diện bến sông thường ngày
vắng lặng, hôm nay lại có cái gì đó khang khác. Trong nhà rất đông người, tốp
đứng tốp ngồi, tốp đi vô tốp đi ra. Vậy mà ít nghe tiếng nói và tuyệt nhiên
chẳng có tiếng cười, hình như gương mặt ai nhìn cũng có vẻ lóng ngóng.
Phía
trước, một tốp hai ba người đàn ông đang tháo bộ cửa gỗ ra khỏi nhà một cách
chậm rãi. Trong nhà, vài người phụ nữ đến lau dọn tỉ mỉ chiếc giường đặt ở gian
giữa. Tất cả tuyệt nhiên yên tĩnh - yên tĩnh đến lạ thường. Chỉ có tiếng lạch
cạnh đều đều của những nhát búa đang tách dần hai vạt cửa và tiếng xoạt xoẹt
rất nhỏ phát ra từ cây chổi hầu như lúc nào cũng di chuyển trên nền nhà. Người
ta nhìn nhau bằng đôi mắt ngơ ngác, thất thần, không buồn cũng không vui. Những
đôi mắt mông lung lắm! Cùng đau nhưng lại không thể cùng chia sẻ, họ chỉ biết
nhìn, và lặng lẽ quay đi.
Trong đám đông ấy có hai người phụ nữ tựa tựa nhau, xê
xích cỡ chừng dăm bảy tuổi. Cả hai cứ bước ra đường lóng ngóng rồi quày quả trở
vô. Lại bước ra dòm ngó bâng quơ như chờ cái gì đó, không thấy gì lại trở vô.
Cái nhìn của họ xa xăm, một khoảng trống chừng như chưa bao giờ lấp. Người phụ
nữ độ chừng ngoài bốn mươi quay sang hỏi thằng nhỏ đứng bên cạnh:
“Mấy giờ rồi Hiệp?”.
“Dạ, bốn giờ rưỡi”.
“Chậc! Chiều rồi sao chưa thấy về!”.
Người phụ nữ trông có vẻ lớn tuổi hơn cứ cầm cây chổi
lên quét quét mấy cái rồi buông xuống. Lát sau lại cầm chổi lên quét, lại buông
xuống. Hình như chị chỉ muốn tìm việc gì đó làm cho khỏi phải lóng ngóng, chứ
nhà đã sạch sẽ, tươm tất từ hồi nào rồi, có gì dơ để quét đâu. Trong lòng chị
ngổn ngang nhiều thứ. Là tình thương, là niềm hoài vọng, là cái đạo làm người…
Và có lẽ cũng có nỗi hận!
“À! Quên nữa, ai ăn cơm thì vô trong bếp bới ăn đi!”,
người phụ nữ trẻ hơn nói.
Người phụ nữ lớn tuổi hơn quay phắt sang, trả lời vội
vã:
“Thôi! Ai ăn uống gì vô!”.
Hai người phụ nữ ấy là hai chị em ruột, nhà họ hôm nay
không tiệc tùng gì cả, mà họ đang chờ đợi một người. Đó là người họ đã phải chờ
suốt hai mươi năm, và vừa mới hôm qua thôi, họ hay tin người ấy sắp về. Hai
mươi năm, họ chưa từng bao giờ chờ đợi hay trông ngóng. Chưa từng thắc mắc
người ấy ở đâu, vì sao lại không trở về. Chưa từng nhớ nghĩ đến người ấy. Có
chăng cũng chỉ là những ký ức quá mờ nhạt, trống rỗng. Vậy mà giờ đây người ấy
đã về.
Người ấy là ba họ.
Suốt cả đêm qua hai người phụ nữ hầu như không chợp
mắt. Mới bốn giờ sáng cả hai đã thức dậy sửa soạn vài thứ linh tinh gì đó, như
là chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Mà họ có đi đâu, cũng ở nhà suốt từ sáng đến
giờ đó thôi. Họ tìm lục trong ký ức của mình những hình ảnh xa xăm, cố chắp nối
lại thành hình thù rõ rệt, nhưng vô ích. Tất cả ký ức ấy chừng như không còn
muốn cho hai chị em lưu giữ nữa, nó đã theo thời gian, và theo má, trôi mất
rồi, rất xa rồi… Người chị cứ cố tìm một việc gì đó để làm, hết nấu cơm rồi lặt
rau, nhìn vào đống chén dơ liền đi xuống rửa, rửa xong nghiêng nghiêng ngó ngó
một hồi không biết phải làm gì nữa, ngồi thừ một góc nhà. Người em không chuẩn
bị dọn hàng ra chợ bán như mọi hôm, sai thằng con tên Hiệp hết làm cái nầy lại
làm cái khác, thấy nó làm không vừa ý lại chạy đến sửa. Nhà cửa được quét dọn
sạch bóng, đồ đạc xếp ngay ngắn, khó tìm thấy miếng bụi nào. Hình như trong mắt
họ, để đón người ấy về là phải chuẩn bị nhiều thứ lắm.
Bỗng dưng trưa nay, một cú điện thoại báo tin người mà
họ chờ không còn nữa. Trời ơi! Sao vậy? Mọi người sững sờ, không tin vào tai
mình được. Họ chuẩn bị nhà cửa để đón ba mình trở về bây giờ lại trở thành
chuẩn bị để… làm đám tang. Những gương mặt vô hồn, rầu rĩ cứ nhìn nhau, thoáng
một cái gì đó mênh mang, chơi vơi. Cô em kêu thằng Hiệp gọi điện cho các cậu,
cô báo tin cho các em mình về gấp lo đám tang ba. Trong điện thoại mọi người
ngớ ra: “Trời! Ba nào?”.
Thì vậy, những người con trai sau nầy làm gì biết ba
họ là ai, cứ ngỡ ba mình đã biệt tích đâu đó hoặc chết ở một xó xỉnh nào rồi.
Vậy mà bây giờ đùng một cái, có một đàn ông ở đâu tự dưng xuất hiện rồi bắt họ
phải gọi là ba. Chuyện không thể tin được, cứ như trên trời rớt xuống!
-o0o-
Ba má họ lấy nhau ai ở xóm nầy cũng cho là “xứng đôi
vừa lứa”. Có ngờ đâu sống với nhau gần chục năm, có với nhau được mấy đứa con,
ông chồng lại trở chứng, sinh ra vợ bé vợ mọn. Rồi ông cũng cuốn gói ra đi theo
ả đàn bà ấy, bỏ lại mấy má con sống trong mái nhà lụp xụp chật vật với biết bao
nhiêu điều lo toan. Ba bỏ mấy má con họ từ hồi năm nảo năm nào, cũng không ai
còn nhớ, và cũng chẳng ai thèm nhớ làm gì. Nghe họ hàng nói là lúc má mới có
bầu thằng Út, bởi vậy sao nầy mấy đứa em trai đâu còn nhớ mặt ba.
Từ khi ông, đi ngôi nhà năm anh chị em, hai chị gái và
ba em trai sống dựa vào số tiền ít ỏi của má kiếm được. Chỉ đơn giản là miếng
cơm ăn cho qua ngày, mấy bộ quần áo mặc, vậy mà coi bộ cũng khó quá chừng! Hai
người chị lớn cũng tìm vài việc linh tinh để phụ má kiếm đồng vô đồng ra cho
mấy đứa em. Thằng con trai kế đi học, thằng kế nữa mới ba bốn tuổi suốt ngày đi
chơi với đám trẻ trong xóm, còn thằng trai út nằm một mình khóc bù lu bù loa.
Má họ có một tiệm tạp hóa lụp xụp ngoài chợ. Gọi là
tiệm cho sang chứ thực ra là cái chòi bán vài món lỉnh kỉnh chẳng ra gì, nhưng
ai cần mua thứ gì cũng đều được đáp ứng. Nếu món hàng khách mua trong tiệm có
thì bán, còn không có thì bà đi mua ở tiệm kế bên rồi về bán cho khách. Cái
kiểu tạp hóa “dã chiến” hay tạp hóa “chạy giặc” nầy coi ra cũng ngộ. Lúc nào
thấy tiệm vắng khách bà chạy về nhà dòm ngó đám con mình. Hai đứa con gái lớn
đứa bán bánh cam bánh còng, đứa bán sơ ri đậu phộng và thằng con trai đi học
đều khỏi lo, chỉ có hai thằng nhỏ phải tới lui coi sóc nhiều. Khi thấy thằng
con đi long nhong ở mé đìa, bà í ới kêu lên coi chừng té, còn thằng út thì phải
ru cho nó ngủ, khi nó khóc phải dỗ cho nín… Tất tả chạy ra tiệm bán rồi tất tả
chạy về nhà coi chừng mấy đứa con, kể ra cũng lắm chuyện phải lo. Nhưng mà, bà
vẫn làm mà không cần dựa dẫm vào ai. Bà muốn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng:
“Không có đàn ông trong nhà, má con tôi vẫn sống được!”.
Mấy chục năm trôi qua, những đứa con càng lớn cũng
đồng nghĩa với người má càng già nua giữa cái cuộc sống lúc nào cũng trẻ trung,
vội vã nầy. Thời gian phủ lên đôi cánh tay của bà một màu đen đúa và càng ngày
càng trở nên ốm yếu, teo thắt lại như chỉ còn da với xương. Tiệm tạp hóa của bà
sang lại cho người khác từ lâu lắm rồi, con cái ra làm ăn riêng, bà khỏi phải
lo cho ai nữa. Mấy đứa con cũng dụng vợ gả chồng gần hết, đám cưới của họ chủ
hôn không bao giờ là người đàn ông. Chỉ có bà, bà lo chu tất mọi thứ. Hình như
con bà đã quên cái tiếng “ba” từ lâu lắm rồi. Mà cũng phải, mấy chục năm rồi
chứ đâu phải ít, con cái trong nhà còn có người không biết mặt ba, hàng xóm dễ
gì còn được mấy người nhớ về người đàn ông ấy.
Người đàn ông đó, hai mươi năm chưa một lần trở về.
Hai mươi năm, gia đình năm chị em ấy chưa từng nghĩ đến “trách nhiệm” nào đó mà
ba phải dành cho họ, nhưng những gia đình khác. Chưa bao giờ mơ ước rằng sẽ có
một ngày ba xuất hiện, rồi cho cái bánh cục kẹo. Cũng chẳng khi nào nghĩ rằng
mình cần phải có ba để cho… giống thiên hạ. Đối với họ, ba là một khái niệm xa
xỉ lạ lẫm, nhưng họ cũng chẳng cần, chẳng quan tâm đến. Vậy mà, nay “ổng” đã
trở về. Thật ra thì đây là một chuyện có dự tính trước. Bà vợ sau của ông và
đám con đã tính toán đâu vào đấy hết rồi. Khi biết bịnh của ông khó qua khỏi,
họ đã bàn tính đưa ông về với gia đình con ruột để khỏi phải gánh trách nhiệm.
Nào ngờ, con ruột chưa kịp rước về thì ông đã tắt thở. Vậy là họ càng phải
nhanh chóng tống khứ ông ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt.
Hồi trưa, lúc điện thoại cho các cậu về, cậu Tư đâu có
muốn rước ba mình, các dì thì lại muốn đưa tiễn ông khúc cuối cùng đó, nhưng
mà…
“Thì đó, bởi
người trong nhà không biết ba. Vả lại ba có cần tới mình đâu, mấy chục năm sống
với một người phụ nữ khác, không chừng ông ấy đã có cả bầy con rồi…”.
Cậu Tư chưa nói xong, dì Hai đã vội chen vào:
“Nhưng mà, dù sao ổng cũng là ba mình, mình là cốt
nhục của ổng mà”.
“Ổng có nuôi mình được ngày nào không? Mà nghĩ cũng
ngộ thiệt chị Hai à, sao đám con của ổng với cái bà vợ đó không lo cho ổng mà
kêu mình rước ổng về? Mấy chục năm nay ổng lo cho cái lũ đó cả đời rồi, bây giờ
tới phút cuối nó lo cho ổng không được sao?”.
Dì Ba từ nãy đến giờ chỉ ngồi lặng thinh, đợi cậu Tư
nói xong mới lặng lẽ nhìn cậu rồi nói với vẻ trầm tư:
“Thì đành là vậy, nhưng mà… Thôi, dù gì cũng hết kiếp
người. Ổng lo cho ai kệ ổng, người ta đối xử với ổng thế nào mình cũng đừng
trách móc người ta. Nhưng sự thật thì ổng vẫn là ba mình. Ổng không nuôi mình
nhưng cũng đã có cái công… mang tiếng ‘ba’ thôi thì còn phút cuối nầy mình rán
làm cho trọn cái đạo hiếu. Còn mầy có cần ổng hay không đó là chuyện của mầy”.
Im lặng lại tràn về. Cái nhà đã chật kín người - năm
người con thêm chồng vợ của họ, rồi con cháu - vậy mà không ai nói tiếng nào,
muỗi bay vo ve nghe phát sợ. Cậu Út mang cặp kiếng trắng dáng vẻ thư sinh, rít
điếu thuốc, thả một vệt khói trắng bay lờ đờ trước nhà. Vệt khói dường như bay
đến từ rất lâu rồi và dường như không tan, không bao giờ tan, cứ chờn vờn trong
ngôi nhà. Cậu Út ngồi nhìn mọi người một lúc rồi lên tiếng:
“Em không biết mặt ba, mấy anh chị còn được ba bồng
ẵm, chứ em thì… Nhưng mà dầu sao ổng cũng là ba mình. Chị Ba nói phải, sự thật
vẫn là sự thật, mình vẫn mang dòng máu của ổng. Em biết ở đây không ai thương
yêu gì ổng hết, bởi vì có ai có ấn tượng gì với ổng đâu. Nhưng mà thôi, ổng
sống sao cũng được, chết rồi mình là con phải lo cho ổng có chỗ nơi an nghỉ.
Chuyện cũ… thôi, chấp làm gì. Việc nhỏ nhoi cuối cùng nầy, mình lo cho ổng đi”.
“Nói như mầy vậy…” - Cậu Tư nói chưa hết câu, mợ Tư đã
khều nhẹ vô vai chồng, ý chừng không muốn chồng mình cãi nữa. (Thôi thì cứ
vậy!)
Cậu Năm ngồi lặng yên không nói, ngước nhìn lên bàn
thờ má. Có lẽ cậu đang nhớ về người má đáng thương của mình. Người đó dành cả
cuộc đời chăm sóc cho năm chị em khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho từng đứa, lo
cho mỗi đứa có công việc đàng hoàng… Tất cả, chỉ một mình bà lo toan. Bao năm
nay người đàn ông ấy sống bên gia đình mới hạnh phúc, nào có ngó ngàng, có nhớ
gì đến đám con của mình. Ông ấy đâu biết là để có được gia đình sung túc hôm
nay họ đã phải đánh đổi cả tuổi thơ, đánh đuổi bằng cả nụ cười của má. Ông ấy
đâu biết rằng vào cái ngày má mất - chỉ mới cách đây chưa bao lâu - con cái hy
vọng ông sẽ trở về dự đám tang cho trọn “nghĩa tào khang”. Ấy vậy mà ông vẫn
biệt tăm. Lúc đó, ông ở đâu? Những ngày cuối cùng của cuộc đời, căn bịnh hoành
hành, đám con của vợ sau ông ấy không chăm sóc mà liền tống khứ về cho con
ruột. Chúng muốn nhanh chóng đem cái lão già vô dụng ấy đi xa càng sớm càng tốt
cho khuất mắt. Những điều đó, ông ấy có biết không?
“Nhưng mà thôi, dẫu sao thì mình vẫn là con… ráng làm
cho tròn bổn phận mấy anh chị à!”.
Cuối cùng thì “đa số thắng thiểu số”, họ quyết định
đón ba về. Cậu Năm và cậu Út nhờ một
chiếc xe chuyển bệnh từ thiện của Hội Chữ thập đỏ rồi cùng đi. Dì Hai và dì Ba
ở nhà lo chuyện nhà cửa. Cậu Tư vốn thuộc phần “thiểu số” không tán đồng, nên ở
nhà không đi rước ba. Tuy nhiên, là người đàn ông duy nhứt trong nhà lúc nầy,
cậu lo mua quan tài và các thứ cần thiết trong việc ma chay. Vậy là từ trưa đến
giờ, những người trong nhà cứ thấp thỏm, đợi chờ, tay chân cứ như nhũng ra,
không làm đâu vào đâu. Bàn thờ má được mọi người đốt nhang liên tục, như muốn
van vái rằng hôm nay chúng con đón ba về… dù gì cũng mong má hãy tha thứ cho
ba. Không ai nói ra, nhưng hình như ai cũng mang một tâm trạng chung như thế.
Không biết ở phương nào đó, người má có nghe được lời của những đứa con nói hay
không, nhưng biết chắc rằng bà sẽ tha thứ cho ông. Họ biết rằng má họ luôn là
người cao thượng, suốt cả đời chỉ sống vì chồng vì con dẫu cho cái nghĩa vợ
chồng người đàn ông ấy chưa từng trả được.
Ngoài xa kia, gió sông Tiền vẫn đánh rì rù vào bờ,
dáng chiếc xe chữ thập đỏ càng gần, càng rõ hơn. Hai mươi năm chờ đợi đã quá
nhiều, và ngày cuối cùng nầy họ vẫn chờ đợi. Chờ đợi, để được đón ba về…
Những ngày cuối năm 2010
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 759, 2012 & in trong
tập truyện ngắn Trở về và chào nhau, Nxb Văn hóa Văn nghệ, 2015)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét