Chiếc ghe cặp lại ở một bến khá
vắng. Xung quanh trải một màu xanh mênh mông của đồng lúa và những đám rẫy. Nhà
cửa chỉ lưa thưa vài nóc và cái nào cũng lụp xụp, đúng hơn là những cái chòi
giữ lúa của nông dân. Định bụng chạy ra vàm kinh rồi ghé lại ăn cơm, nhưng cũng
đã quá buổi mà chưa người nào có gì vào bụng, nên chị Hai kêu đậu ghe lại ăn
cho xong bữa rồi đi tiếp. Chiếc ghe dần tấp vào bờ kinh. Tôi chạy ra trước mũi
buộc dây vào một gốc cây gần đó. Chiếc ghe chòng chành một lúc rồi nằm yên. Có
tiếng bìm bịp kêu đâu đó nhưng nhìn xung quanh lại không thấy. Thỉnh thoảng có
bầy chim xà xuống xôn xao rồi lại rướn mình bay khỏi các lùm cây, tạo ra những
âm thanh mỏng xé ngang không gian tĩnh mịch của buổi trưa nắng tràn. Vài ba con
cua bò chậm chạp bên mé nước. Mấy đàn cá lìm kìm bơi quanh ghe. Vắng lặng một
cách lạ lùng.
Trong ghe, mâm cơm chỉ vỏn vẹn
có ba người: chị Hai, con Nhi và tôi, với vài món ăn cũng đơn giản. Thì nào giờ
vẫn vậy. Ăn vừa xong, chưa kịp dọn rửa thì đã thấy vài người đến mua mấy thứ
linh tinh, nước mắm, đường, muối, trứng vịt… Chị Hai quay tới quay lui hết lấy
món nầy đến món kia. Bán xong, chị quày quả bước ra sau rửa mâm chén. Tôi tranh
thủ leo lên mui ghe ngồi rít điếu thuốc, chờ chị rửa chén xong để xuống lái ghe
đi tiếp. Trong ngày có lẽ thong thả nhứt là những lúc ăn cơm xong. Sau bữa sáng
tranh thủ uống được ly cà phê, hút điếu thuốc, cũng có khi nhâm nhi tách trà
nóng. Bữa tối ghe thường ghé lại nơi đông đúc, ăn xong có thể dong lên bờ đi dạo
một chút rồi về. Cuộc sống quanh năm trên sông nước là vậy. Có người nói nó
chòng chành như chiếc ghe, có người nói nó lèo bèo, có người nói bảy nổi ba
chìm… Tôi thì chỉ nghỉ đơn giản, chiếc ghe có nhiệm vụ là chạy, chạy không
ngừng, đời người cũng vậy thôi, cứ xê dịch mãi chứ có đứng lại một chỗ bao giờ
đâu.
Chị Hai tôi là dân thương hồ.
Nhưng là thương hồ “tập sự” chứ không phải “con nhà nòi”. Chiếc ghe tạp hóa nhỏ
của chị chạy đi bán khắp nơi, y như một căn tiệm di động. Ở đâu có người thì có
ghe tới bán. Thường thì ghe chúng tôi đi bán ở những vùng xa xôi, nơi đường xá
khó khăn. Nhưng nhiều nhứt là vô đồng, bán cho những người nông dân. Họ sống
trong đồng suốt mùa thu hoạch lúa, sau khi thu hoạch xong mới trở về nhà. Trong
thời gian đó, họ không thể mua hàng ở đâu tiện bằng đón các chuyến ghe tạp hóa
như ghe của chúng tôi. Tôi được giao làm “tài xế” cho chiếc ghe nầy. Suốt mấy
năm trời dọc ngang vùng sông nước, kinh rạch miền Tây hầu như chị em tôi rành
“sáu câu”. Nhứt là vùng Tứ giác Long Xuyên và miệt U Minh chúng tôi thường đi
nhiều. Đi riết rồi quen, sống giữa sông nước mênh mang dần dần cảm thấy bớt nhớ
nhà. Việc buôn bán của chị không lời lãi gì nhiều, được bao nhiêu sắm sửa cho
con Nhi và mua thêm hàng hóa bán tiếp chứ cũng không dư giả mấy. Vậy mà vui.
Có lần ghe chúng tôi ghé ngang
một xóm đông đúc. Dân cư không giàu có lắm nhưng coi bộ cũng có vẻ khá giả.
Trong lúc chị tôi đang lui cui bán hàng, có một anh chàng nước da đen thùi mốc
thếch, tóc xoăn chôm bôm như cái tổ chim, nhưng cách ăn mặc lại tỏ vẻ bảnh bao,
bước lại ghe hỏi tôi:
“Ê, chị mầy nhiêu tuổi rồi?”.
Tôi trả lời nhát gừng:
“Ba mươi. Có chi không?”.
“Đi bán như vầy bao lâu rồi?
Con gái trắng trẻo mảnh khảnh nhìn giống tiểu thư hơn. Vậy mà thấy buôn bán
cũng ra vẻ dân thương hồ chính hiệu quá hả!”.
“Cũng vài ba năm. Nhập gia tùy
tục thôi!”.
“Ê, có chồng chưa mầy?”.
Nghe hỏi một thôi một hồi, cuối
cùng tôi mới hiểu hắn đang “dòm ngó” chị mình. Tôi cũng không muốn nói chuyện
nhiều với hắn nữa, chị tôi không thích mấy chuyện nầy.
“Hổng biết có chồng chưa mà con
nhỏ ba bốn tuổi trong ghe kêu bả bằng má đó. Đừng hỏi nhiều. Tính ve vãn hả?
Tôi dộng vô mặt ông bây giờ!”.
Tôi vừa nói vừa chỉ con Nhi
đang chơi trong ghe. Hắn bị tạt gáo nước lạnh, mặt xụi lơ:
“Biết rồi! Hỏi chơi vậy thôi
chứ ve vãn gì. Làm gì mà ghê vậy mầy?”.
Kiểu nói chuyện nghe mà thấy…
khó ưa. Tôi chui tuốt vô ghe, chẳng thèm để ấy đến hắn. Tôi cũng khâm phục
chính mình, bình thường hiền như cục đất mà đánh võ miệng cũng có người sợ, tôi
cười ngất. Mà… nghĩ cũng tội nghiệp chị!
-o0o-
Chị Hai giao ghe lại cho tôi
trông coi, nói là lên chợ mua vài thứ. Tôi cứ nhìn miết theo cái dáng gầy mảnh
mai đang khuất dần về phía xa. Tội nghiệp. Còn đang tuổi xuân thì, không phải
là giai nhân nhưng cũng là một cô gái khá. Nghĩa là nếu chị chỉ cần gật đầu có
cả khối đàn ông đi theo. Vậy mà chị chỉ suốt ngày ở trong cái ghe nầy, thân
phận nổi trôi cùng sông nước, từ chối hầu như tất cả mọi giao tiếp với bên
ngoài nếu không có liên quan đến chuyện mua bán. Đứa con gái nhỏ của chị mới
mấy tuổi đầu cũng phải tâp đi tập nói trên ghe…
Một lát sau, chị hớt hải trở
về, mặt tái xanh nhưng lại hiện rõ vẻ vui mừng. Tôi không biết điều gì đã xảy
ra, nhưng trước giờ chưa từng thấy vẻ mặt chị như vậy. Kể từ ngày đó, chị Hai
trở nên lạnh nhạt. Nhưng hôm nay, chị trước mặt tôi thành con người khác. Ấm
nóng hơn, hồ hởi hơn, hăng say hơn. Tôi hồ như đọc được điều gì trong vẻ mặt
đó. Chị nói gặp thơ của anh Đình đăng báo, rồi đưa tờ báo đó cho tôi coi. Chị
hỏi tôi thấy bài thơ hay không. Cha mẹ ơi, chuyện văn chương chữ nghĩa nầy ai
biết gì mà coi. Nhưng thấy cái tên Lê Phương Đình rành rành biết chắc là anh
rồi. Tôi ngồi im không nói, cứ gán mắt vô tờ báo ra vẻ đọc đọc, ngâm ngâm,
nhưng thật ra đang muốn chờ xem thái độ của chị. Chị vẫn không nói gì, vẻ mặt đầy
tâm trạng. Cả tôi, cả chị, không biết nói gì hơn, làm gì hơn vào lúc nầy.
Ăn cơm xong, chị dỗ con Nhi
ngủ. Con nhỏ cứ khóc riết, không chịu ngủ. Nó tìm đủ thứ cách để trốn, nói là
hồi tối ngủ rồi, hôm qua ngủ rồi, không buồn ngủ nữa. Chị dỗ dành hết lời. Nào
là ngủ tối không đủ phải ngủ trưa nữa mới lớn được, ngủ thức dậy sẽ dẫn lên chợ
mua đồ chơi. Rồi còn lấy tôi ra để hù dọa: không ngủ cậu Ba đánh đòn… Vậy mà
con nhỏ vẫn không chịu ngủ. Tình huống nầy quá quen thuộc. Chuyện tìm cách để
cho nó ngủ là chuyện dễ như cơm bữa. Thậm chí là có thể đánh nó. Vậy mà không
hiểu sao chị lại không làm theo cách trước nay đã làm. Chị bẻ ngoặc theo hướng
khác, cái hướng phải đi một vòng tròn rộng đáng sợ. Chị nhìn nó lâu, thật lâu,
cái nhìn lạ lắm. Hồi lâu sau chị nói nhẹ:
“Nhi ngoan nè, ngủ đi rồi má
dẫn con đi gặp ba”.
Mắt con nhỏ sáng trưng:
“Ba hả?”.
Chị nhìn nó, mím môi, nói nhát
gừng:
“Ừ…”.
“Ba ra làm sao vậy má?”.
“Ừ… thì… Thôi ngủ đi! Rồi má
dẫn con đi gặp, nói con cũng không biết đâu”.
Con nhỏ làm sao biết mặt ba nó?
Tự dưng chị đem ba ra nói cho nó nghe làm gì. Dễ gì con nhỏ chịu ngủ, tôi nghĩ
thầm. Vậy mà nó chịu ngủ thật. Chị với nó còn nói thêm vài câu gì đó rồi nó
nhắm mắt lại nằm im re, lát sau thì đã ngủ khì.
“Sao chị nó về ba trước mặt nó
chi vậy? Nó có biết gì đâu!”.
“Sao không, tình cha con mà,
biết liền”.
“Chị khùng quá trời rồi!” .
Nói rồi tôi bỏ lên mui ngồi
uống trà, vẫn nghe tiếng chị đuổi theo:
“Ừ! Tao khùng! Tao khùng mới để
con tao mồ côi cha nè!”.
Nghe chị nói mà lòng tôi đau
thắt. Có cái gì đó nghe buồn buồn tưởng chừng như hàng vạn tấn hắt hiu đang ngã
nhào xuống chiếc ghe nầy. Trời ơi! Chi mà khổ vậy chị?
Chị em tôi là con trong một gia
đình không giàu có gì lắm, nhưng cũng không đến nổi tệ. Nghĩa là nếu chúng tôi
không đi ghe, tía má đủ sức lo cho chúng tôi cái nghề khác, mà theo má nói là
“Phải an cư thì mới lạc nghiệp con à, trôi nổi kiểu nầy hoài sao làm ăn giàu có
với người ta!”. Nhưng nhiều lúc tôi nghĩ, bây giờ chị Hai cũng đâu cần giàu có
gì, chị đi ghe là vì cái khác. Má biết tỏng cái mục đích của chị đi ghe, nhưng
má vẫn im lặng, làm ngơ, để chị đi.
Đêm đó ghe đậu lại
ở một chợ nhỏ. Mới ba giờ sáng, cái bến vắng tanh hồi hôm qua giờ đã xôn xao
tiếng rao hàng, trả giá, tiếng chửi bới lằng nhằng cũng có. Sóng vẫn đánh vào
thành ghe đều đều, nghe ì oạp. Tôi không ngủ được, tự viện cho mình cái cớ là
quá ồn ào, mặc dầu rõ ràng là đầu óc mình đang lo cho chị, cho con Nhi. Tôi
bước ra mũi ghe, hút điếu thuốc. Gió thổi man mát, kéo cả những làn khói thuốc
đi đâu, xa lắm. Con Nhi vẫn còn ngủ khì
nhưng chị đã thức, tôi biết vậy.
Hai mươi tuổi chị Hai bước lên
xe về nhà chồng, thằng Út em tôi khóc ngất. Chị cũng đâu phải đi luôn, thỉnh
thoảng sẽ về thăm nhà. Nhưng lúc đó trong đầu óc non nớt của nó chỉ nghĩ là chị
phải đi tới cái nơi mịt mùng khỉ ho cò gáy nào đó rồi ở suốt trong ấy. Tôi thì
buồn buồn, không biết liệu rồi chị có hạnh phúc hay không. Người ta nói những
người tài hoa, đa tình cũng thường hay dễ phụ bạc.
Anh Đình cũng là một người đa
tài và… đa tình. Phải nói, anh là một chàng lãng tử “chính hiệu”. Làm thơ, vẽ
tranh, viết nhạc không chỉ anh đều có thể làm, mà còn làm hay nữa là đằng khác.
Hầu như khi yêu một người con gái nào anh đều làm dăm ba bài thơ tặng cô ấy.
Chị tôi cũng không ngoại lệ. Nhưng tôi biết, chị yêu anh không phải vì cảm động
với những bài thơ đó. Có thể chị tìm gặp nơi anh một cái gì đó, đại loại, giống
mình.
Chị Hai thường nói anh là người
có máu lang bạt kỳ hồ. Thỉnh thoảng anh lại đi một nơi nào đó không biết, làm
gì đó không biết, để rồi khi về nhà lại cặm cụi viết viết. Cứ thế những sấp
giấy dầy lên dần, những trang bản thảo gửi đi nhưng chưa một lần nhận được hồi
âm. Vậy mà anh vẫn cặm cụi. Rồi một hôm, anh cũng lại tất tả ra đi như mọi khi.
Trên người chỉ mang theo cái ba lô gọn hơ chứa vỏn vẹn vài bộ quần áo và sấp
giấy dầy mo. Chị cứ tưởng cũng như những lần trước, anh đi ít bữa rồi về. Nhưng
không ngờ anh nói nơi nào đó chịu xuất bản tác phẩm của anh. Cái tiểu thuyết có
tên là dòng sông trắng dòng sông đen gì đó, chị không nhớ rõ. Chị chỉ biết rằng
anh đã thành công, anh phải đi theo tiếng gọi của nghệ thuật, bắt đầu một chặng
đường mới, chừng nào hết còn gì để viết anh sẽ về. Vậy là anh cất từng bước đi
ra khỏi căn nhà của mình. Chị chỉ nhìn theo mà không nói một lời ngăn cản. Lúc
ấy trong bụng chị đã có đứa con của anh, điều nầy thì anh không biết. Chị có
thể dùng đứa con để làm lý do buộc anh ở lại, như thế có thể sẽ có hiệu quả,
nhưng chị không làm. Sau nầy chị kể, lúc đó chị thấy trong mắt anh tóe lên một
cái gì đó hạnh phúc lắm, như vừa tìm được tri âm, vừa thấy được con đường sáng
trước mặt nên chị để cho anh đi, vậy thôi.
Anh đi rồi chị trở về nhà tía
má, không khóc, không cười, chỉ buồn buồn một cái gì đó xa lắm. Má khóc hết
nước mắt, tía lặng nhìn chị không nói gì. Má la, nói con nầy ngu không biết cản
nó để bây giờ nó đi rồi ai lo cho hai mẹ con. Chị nhìn má, hai đuôi mắt nhỏ xíu
bắt đầu hơi ướt. Chị nói nhỏ, với má hay với chính chị cũng không rõ: “Để cho
anh ấy đi má à! Anh ấy là người lang thang, là kẻ độc hành, cản được bây giờ
chứ có cản được suốt đời đâu. Thôi thì anh ấy cứ làm những gì mà mình thích,
khi nào mỏi chân thì anh ấy vẫn còn có vợ có con để mà về…”.
Vậy là anh Đình đi. Biền biệt
tới bây giờ.
Con Nhi sinh ra vừa tròn năm,
chị xin tía má ít tiền, nói là để đi ghe mua bán. Má nhìn chị trân trân, nói:
“Trời ơi, con nhỏ nầy khùng thiệt rồi, hết bị chồng bỏ đến đòi đi ghe. Sao mầy
toàn làm chuyện tào lao không vậy Hai?”. Nhưng rồi bà cũng cho chị mớ vốn, nghe
nói hình như do tía khuyên má nên để chị đi cho khuây khỏa nên bà mới chịu. Số
tiền đó đủ đóng chiếc ghe, phần còn dư chị rủ tôi hùn thêm vô để mua vài thứ
linh tinh rồi hai chị em chạy trên sông nước bán. Lúc đầu tôi nghĩ chuyện đi
ghe chắc là “trớt quớt” rồi, vừa cực vừa buồn, ai chịu nổi. Sao chị lại không
mở tiệm tạp hóa bán trên đất liền mà đi ghe chi cho cực? Nhưng rồi tôi cũng hùn
ít tiền, lót tót đi theo. Ngày đó, má khóc sướt mướt như con nít. Má không lo
cho thằng con trai như tôi. Nhưng má sợ đứa con gái vốn quen với nếp sống tiểu
thư và cháu ngoại còn đỏ hỏn của mình. Trong đầu bà nghĩ đến mọi thứ. Không
biết chị Hai có chịu được cực khổ, nắng gió không? Cháu ngoại mình sống trên
ghe ăn uống có đủ dinh dưỡng không? Sống lênh đênh trên nước nguy hiểm quá! Hai
mẹ con không có người chồng, người cha có thể đứng vững trước sóng gió không?
Đủ thứ để má lo nghĩ. Nhưng thôi, cũng phải nuốt nước mắt cho chị đi. Chị Hai
đã quyết rồi, khó ai mà cản được, má cũng hiểu điều nầy.
Nhiều người khách
quen mua hàng của chị nói chị hiền. Tôi thì không nghĩ vậy. Chị là người vô
cùng ương bướng, ương bướng một cách khó hiểu. Chị không thích ràng buộc, không
thích tự đẩy mình vào một khuôn khổ nào cả. Việc gì đã quyết định là làm tới
cùng (dù có những chuyện biết rằng sẽ thất bại), ai cố ngăn cản chị càng quyết
làm bằng được. Có lẽ ở điểm nầy tôi giống chị. Mà cũng phải, người đã mất một
cái gì đó to lớn thì ngoài việc nghĩ cách tìm lại đâu còn nghĩ chuyện khác
được. Nếu có ai đó nghe được câu chuyện chắc sẽ nói chị mê muội, thậm chí là
“thèm” đàn ông. Nhưng tôi lại không nghĩ vậy. Chị không tìm chồng mà tìm cha
cho đứa con. Chị không tìm tình yêu cho bản thân mà tìm lại tình cảm thiêng
liêng nhứt vốn dĩ phải dành cho con mình. Chị không cần anh ấy phải xin lỗi rồi
quay trở về mà chỉ cần cho anh ấy biết là mình có một đứa con, cần một câu nói,
một cái hôn lên má con Nhi, chỉ vậy là đủ rồi. Nói chung, chị tìm anh ấy chỉ vì
những điều rất lập dị. Tôi không khuyên ngăn vì tôi hiểu chị hơn ai hết. Mà có
khuyên cũng được đâu. Cứ đi đến nơi cần đến, cứ làm những việc muốn làm, như
vậy sẽ thanh thản như hút một điếu thuốc rồi thả khói lên trời, như từ từ nhấm
nháp tách trà rồi đánh ực. Còn nếu không có kết quả gì thì ít ra cũng sẽ cảm
thấy bớt “đau” hơn.
Cái gì đến rồi cũng
đến, điều ấy tôi đã lường trước. Sáng hôm sau chị nhìn tôi với vẻ mặt đăm
chiêu, rồi nói thật khẽ:
“Chắc chị phải tìm
anh Đình thôi. Chị còn con Nhi…”.
Tôi vẫn ngậm điếu
thuốc trong miệng, ngó bâng quơ. Khi làn khói chỉ còn là những vệt trắng thuộc
về quá khứ, tôi mới hỏi, cũng chỉ là vu vơ:
“Anh Đình đang ở
đâu?”.
“Nghe người ta nói
anh đang ở Long Xuyên”.
“Chị tính đi thiệt
hả?”.
“Ừ…”.
“Thôi được rồi, chị muốn đi đâu em chở chị đi!”.
Có lẽ khi nói điều nầy với tôi,
chị Hai đã biết trước rằng thế nào tôi cũng sẽ phản đối kịch liệt, hoặc là tỏ
thái độ gì đó đại loại như thế. Nếu vậy chị sẽ đi một mình, đi để tìm cha con
con Nhi. Chị không ngờ tôi lại đồng ý. Cả tôi cũng không ngờ mình lại nói ra
được như vậy. Thật sự lúc ấy tôi đang nghĩ gì, tại sao cái tánh nóng không trồi
lên, cái ương bướng không xuất hiện để được nói một chữ “không” gọn hơ cho
khỏe? Tự dưng tôi cảm thấy thương chị quá chừng, thương hơn bao giờ hết. Đi thì
đi…
Ghe đến Long Xuyên sau mấy ngày
lênh đênh. Suốt mấy ngày đó chị như người mất hồn, cứ lo nghĩ đâu đâu, bán buôn
không được gì cả. Con Nhi thì cứ ríu rít hỏi mẹ chừng nào gặp ba, ba ra làm
sao… Có nhiều đêm chị nằm trong khoang khóc thúc thít, như có chuyện gì ấm ức
lắm, nhưng lại không muốn cho ai nghe. Ừ, thì chị cứ khóc đi, khóc một lần cho
hết rồi còn lo cho con Nhi nữa, phải không chị? Sáng vừa rạng mặt người chị đã
nhảy tót lên bờ, đi đến chiều mới trở xuống ghe, mặt phờ phạc, ngó mông lung
nhưng chẳng để lục lọi cái gì. Gần tối, chị nói: “Có bà chủ quán cà phê nói anh
Đình có ghé quán uống nước, nhưng anh ấy đi Mỹ Tho từ hôm qua rồi…”. Rồi chị
nằm xuống ôm con Nhi vào lòng, mái tóc dài phủ nửa bên mặt. Qua ánh sáng mờ mờ
của những ngọn đèn trên bến, tôi thấy khuôn mặt chị run run.
Không biết chị có muốn đến Mỹ
Tho nữa không? Mà, đến Mỹ Tho rồi liệu có gặp được anh Đình không, hay lại phải
quày quả ra đi? Anh Đình và giấc mơ nghệ thuật của anh vẫn còn phía trước, vẫn
lang bạt kỳ hồ như sở thích của mình. Còn chiếc ghe nầy, chở theo vợ và đứa con
của anh, vẫn nổi trôi sông nước, dạo khắp xứ sở. Cứ coi là đi bán buôn cũng
được, hoặc coi như đi tìm anh cũng được, những chuyện đó không là gì cả. Ai
cũng như ai, cũng phải nổi trôi giữa cuộc đời nầy thôi. Đi mãi nhưng mấy khi
được quay về.
Hai cánh bèo cùng trôi trên một
con sông, nhưng biết đến khi nào hai cánh bèo ấy mới gặp được nhau ?
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Báo Văn nghệ, số 8, 2014 & in trong
tập truyện ngắn Trở về và chào nhau, Nxb Văn hóa Văn nghệ, 2015)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét