Châu Đốc nằm cạnh biên giới Việt Nam - Cambodia là vùng đất cổ kính, có bề dày lịch sử, đậm dấu ấn văn hóa phương Nam. Địa thế Châu Đốc được nhiều người ca ngợi là “tiền tam giang hậu thất lãnh” tức là phía trước có ngã ba sông, sau lưng có dãy Thất Sơn hùng vĩ. Năm 2013, Châu Đốc trở thành thành phố đầu tiên không phải là tỉnh lỵ ở đồng bằng sông Cửu Long.
Vùng đất tương ứng với tỉnh An Giang
ngày nay, thuộc chủ quyền Đại Việt vào năm 1757, khi vua Chân Lạp là Nặc Tôn
dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn Phước Khoát. Khi đó, khu vực biên cương
còn hoang vu, dân cư thưa thớt, nên chưa thiết lập chánh quyền hành chánh. Tướng
Nguyễn Cư Trinh lập ba đạo binh quản lý về mặt quân sự là Tân Châu đạo,
Châu Đốc đạo và Đông Khẩu đạo. Đây là lần đầu tiên danh từ Châu Đốc xuất hiện.
Đầu triều Nguyễn, Châu Đốc được đặt
như “đặc khu” riêng gọi là Châu Đốc tân cương, thuộc trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832,
vua Minh Mạng đổi đơn vị trấn ra tỉnh, tỉnh An Giang ra đời. Thành Châu Đốc
là tỉnh lỵ tỉnh An Giang, nơi trú đóng của
quan Tổng đốc An Hà (kiêm quản hai tỉnh An Giang và Hà Tiên). Địa phận tỉnh
An Giang thời bấy giờ tương đương các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc
Trăng và một phần Đồng Tháp ngày nay.
Có thể nói, Châu Đốc là một trong những
nơi thuộc chủ quyền Đại Việt muộn nhứt (1757) nhưng lại hưởng độc lập ngắn nhứt,
vì đến năm 1867 đã bị Pháp chiếm. Vậy mà trong 110 năm đó, Châu Đốc đã phải ba
lần đối phó giặc Xiêm xâm lược. Hiếm có nơi nào bị xâm lược nhiều như thế trong
khoảng thời gian ngắn như thế!
Năm 1771, khi vùng đất Tầm Phong Long
vừa thuộc chủ quyền Đại Việt hơn mười năm thì quân Xiêm đã lăm le bờ cõi
và sau đó tiến đánh Hà Tiên. Viện binh không kịp đến, Hà Tiên thất thủ, Mạc
Thiên Tích chạy về Châu Đốc, nhưng không lâu sau Châu Đốc cũng thất thủ, Mạc
Thiên Tích tiếp tục chạy sang Tân Châu. Sau đó, viện binh từ Long Hồ do Tống
Phước Hiệp chỉ huy đến tái chiếm Châu Đốc. Đây là lần đầu tiên Châu Đốc đối phó
với giặc ngoại xâm, chưa có kinh nghiệm, chưa đề phòng và chuẩn bị, tình thế
lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Năm sau, Nguyễn Cửu Đàm dẫn quân từ
miền Trung ồ ạt kéo vào, theo đường sông đánh đuổi giặc Xiêm.
Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi dậy chống
triều đình vua Minh Mạng, chiếm thành Phiên An (Gia Định), nhờ Xiêm chi viện. Với
ý đồ xâm lược Đại Nam, hàng vạn quân Xiêm do tướng Phi Nhã Chất Tri và Phi Nhã Khổ Lặc cầm đầu, đánh vào biên
giới An Giang. Cuối năm 1883, tháng 11 Hà Tiên thất thủ, tháng 12 Châu Đốc thất
thủ, thế giặc như chẻ tre ồ ạt tiến xuống phía Nam. Quân đội triều Nguyễn rút về
phục kích ở Vàm Nao đến đầu năm 1834 bắt đầu phản công. Với những danh tướng
Trương Minh Giảng, Phạm Hữu Tâm, Doãn Uẩn… quân đội Đại Nam nhanh chóng làm chủ
tình hình và đánh bại quân Xiêm. Đợt xâm lăng 1833 - 1834 là cuộc chiến cam go,
nguy hiểm, vùng biên thùy Châu Đốc lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng, thiệt hại rất
lớn.
Chưa đến mười năm từ thất bại lần trước,
năm 1841 giặc Xiêm lại lăm le bờ cõi. Chúng dựng đồn ở đất Cao Miên dọc bờ kinh
Vĩnh Tế, thường xuyên gây hấn với quân đội triều Nguyễn cũng đang đóng dọc bờ
kinh. Năm 1842, Xiêm chính thức hành quân sang đất Đại Nam, một cánh quân theo
đường biển vào Hà Tiên, một cánh quân từ biên giới đổ vào vùng châu thổ. Quân đội
triều đình từ miền Trung được đưa gấp vào Nam chi viện. Đến năm 1845, ba nước Đại
Nam - Cao Miên - Xiêm La ký hòa ước.
Ngay từ buổi đầu, triều đình Nguyễn
đã nhận định “Châu Đốc là trọng trấn cõi Nam”, [1] là vùng đất chiến lược nên hết
sức quan tâm. Trong chiến tranh, Châu Đốc cũng luôn là mục tiêu của quân thù.
Ngót trăm năm đánh giặc ba lần, lớp trước ngã xuống, lớp sau chưa kịp trưởng
thành lại phải đứng lên chống giặc. Nhưng Châu Đốc bất khuất, chẳng những chiến
thắng oai hùng mà còn có thời gian kiến thiết quê hương, dựng làng thôn canh
tác, xác lập chủ quyền thiêng liêng trên vùng đất mới. Và cũng chính vị thế quan trọng đó, những vị quan đứng
đầu tỉnh An Giang hầu như luôn là những danh tướng như Trương Minh Giảng, Nguyễn
Tri Phương, Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Cao Hữu Dực…
Thời
bình, chánh quyền và nhân dân tiếp tục chú trọng phát triển kinh tế và khai khẩn
đất hoang. Việc
khai hoang ở An Giang được triều đình cho dân chọn địa điểm, hỗ trợ nông cụ, miễn
thuế những năm đầu. Đồng thời, mặc dù nhà Nguyễn chủ trương trọng nông ức
thương, nhưng thương nghiệp tại đất mới lại khá dễ dãi, thậm chí còn có phần
khuyến khích. Bởi lẽ, làm thế là để thương nghiệp tác động vào nông nghiệp,
thúc đẩy nông dân canh tác. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan của tự
nhiên và xã hội, cả nông nghiệp lẫn thương nghiệp đều khá trì trệ.
Về thương nghiệp, năm 1818, trấn thủ
Vĩnh Thanh vâng lịnh vua lấy một phần đất lập chợ Châu Đốc. Như vậy chợ Châu Đốc
ra đời sớm, song có thể hoạt động không mấy hiệu quả, bởi Đại Nam nhất thống chí biên soạn thời Tự Đức khi kể tên các chợ lớn
ở An Giang đã không nói đến chợ Châu Đốc (và cả chợ Đông Xuyên tức Long Xuyên
ngày nay). Về nông nghiệp, một công tác quan trọng là đào kinh Vĩnh Tế do Thoại
Ngọc Hầu chỉ huy từ năm 1819 đến năm 1824, vừa giúp lưu thông hàng hóa, vừa điều
tiết chế độ nước: mùa lụt thoát bớt nước ra biển Tây và mùa khô cung cấp nước
cho vùng biên giới.
Trong tác phẩm Đất quê hương, nhà văn Mai Văn Tạo - người con của Châu Đốc cảm nhận:
“Kinh Vĩnh Tế như đại trường giang vượt qua ghềnh đá, rừng hoang, gò nổng vươn
thẳng tới Hà Tiên… Mồ hôi và máu của lớp lớp người xưa đã quện lại trên những bờ
kinh biêng biếc, trên cánh đồng xanh um rau quả xuân hè, vàng rộm lúa thu. Có
thể nào quên màu xanh cây bát ngát, màu lúa vàng xao xuyến hôm nay đã trỗi dậy
từ những đầm lầy hoang sơ của một thời xa khốn khó.” [2]
Thật vậy, miệt Châu Đốc ngoại trừ
vùng trũng, nê địa thường xuyên ngập úng, còn có vùng đồi núi lỏm chỏm phía Tây
là nơi rừng thiêng nước độc “đi dễ khó về”. Cả hai địa hình đều không thể canh
tác, lại thêm điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Thế nên, những cư dân đầu tiên của An Giang hoặc là cao nhân ẩn sĩ tìm chỗ vắng
vẻ để lánh đời, hoặc là những thành phần bất hảo như trộm cướp đóng căn cứ, kẻ
bị truy nã lẩn trốn, kẻ tù tội thi hành án “đày ra biên ải”…
Châu Đốc và vùng dọc theo biên giới,
xưa là chốn lưu đày những tù phạm, đến đây như hình thức cải tạo, làm đồn điền.
Thấy được điều đó, năm 1850, Nguyễn Tri
Phương nhậm chức Tổng đốc An Giang đã đẩy mạnh việc đưa tù nhân và dân thường
đi khai hoang, lập đồn điền ở vùng biên giới. Bởi ông là một vị tướng am tường
về bờ cõi Tây Nam, từng nhiều năm chinh chiến nơi đây. Công việc khai hoang đạt được những thành quả khả
quan, tính đến năm 1854 đã lập khoảng 100 thôn và 21 đồn điền.
Năm 2017, cột mốc lịch
sử đặc biệt khi tròn 260 năm thiết lập Châu Đốc đạo. Hai chữ “tân cương” trong
Châu Đốc tân cương thời Gia Long gợi lên một vùng xa xôi thăm thẳm, hoang hóa bạt
ngàn. Vậy mà từ chốn cô tịch ấy, thành quách và phố chợ dần phát triển dưới sự
chung tay góp sức giữa những di dân và các vị tướng tài danh. Đó là nền móng vững
chắc để hôm nay, thành phố biên thùy Châu Đốc đang vươn mình bắt nhịp và đóng
góp vào chặng đường đi lên của đất nước. Làm sao không kỳ vọng “trọng trấn cõi
Nam” về mặt quân sự của triều Nguyễn sẽ trở thành “trọng trấn cõi Nam” về mặt
kinh tế trong tương lai?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét