2. Tổng quan về làng Chăm Katambong
Katambong là tên một cù lao trên sông Hậu, hiện nay có diện
tích hơn 2.000 ha, tên gọi hành chánh là xã Khánh Hòa, thuộc huyện Châu Phú. Buổi
đầu, người Chăm gọi nơi đây là Koh Taboong, trong đó
“koh” là cù lao và “taboong” là cây gậy [Dohamide
& Dorohiêm 2006]. Người Việt đọc trại thành Cỏ Tầm Bong, khi người Pháp đến
lại viết thành Katambong.
Nếu
xét địa bàn huyện Châu Phú ngày nay, Gia
Định thành thông chí cho biết vùng đất nầy đầu triều Nguyễn chỉ có thôn Bình
Thạnh Tây và Bình Lâm [Trịnh Hoài Đức 2004]. Đến thời Minh Mạng, qua Địa bạ triều Nguyễn ta biết thôn Bình Thạnh
Tây thành Vĩnh Thạnh Trung, có thêm thôn mới Bình Mỹ và Mỹ Đức [Nguyễn Đình Đầu
1995], Koh Taboong bấy giờ thuộc thôn Mỹ Đức. Sau nầy, cù lao tách khỏi Mỹ Đức để
hình thành thôn Khánh Hòa. Thời Pháp thuộc, thôn Khánh Hòa lại chia thành Khánh
Hòa dành cho người Việt và Katambong dành cho người Chăm vào năm 1882 [Nguyễn
Đình Tư 2017]. Pháp cũng sử dụng Katambong làm tên chính thức cho cù lao. Năm 1957, hai xã nhập lại thành Khánh
Hòa, trở thành xã duy nhứt trên cù lao đến nay.
Thánh đường Jamiul’Aman (Ảnh: Vĩnh Thông)
Người Chăm đến Koh Taboong
cùng thời với những chuyến di dân về An Giang của cộng đồng người Chăm ở Chân Lạp,
những nhóm đến trước định cư ở các làng phía Bắc tỉnh An Giang, những nhóm đến
sau xuôi theo dòng sông Hậu xuống phía Nam, trong đó có nhóm Chăm Koh
Taboong. Hiện nay mặc dù sống gần gũi với người Việt trong cùng một đơn vị hành
chánh, nhưng người
Chăm vẫn quây quần tập trung trong những xóm ấp nhứt định trên cù lao chứ không
sống rải rác.
3. Văn hóa vật thể
Về mưu sinh,
từ năm 1902 trong Chuyên khảo về tỉnh
Châu Đốc đã đề cập: “Gần như tất cả những người Mã Lai và người Chăm đều là
những người buôn bán, nhưng không chuyên vào một thứ hàng hóa nào nhất định” [Hội
Nghiên cứu Đông Dương 2017: 79]. Sống ở vùng đất sông nước “là tiền đề phát triển
các nghề buôn bán trên sông, vận tải đường sông, nuôi cá và lưới cá trên sông”
[Lý Tùng Hiếu 2016: 168] nên trước đây nam giới người
Chăm giỏi nghề đánh bắt cá và mua bán nông sản. Bên cạnh đó, nữ giới nổi tiếng
với nghề dệt vải và thêu thùa. Ngày nay, họ
mưu sinh bằng nhiều ngành nghề khác nhau như trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán
hàng hóa và dịch vụ…
Về ẩm thực,
giới luật Islam quy định họ chỉ được ăn thịt những con vật do chính người Islam
cắt tiết, trước khi ăn phải đọc kinh. Họ không ăn thịt heo, chó, rắn… và những
con vật tự nhiên ngã ra chết hoặc bị giết bằng cách siết cổ, đập đầu, bị húc, bị
xé xác… Những loại thịt đảm bảo không phạm các quy định này được gọi là Halal. Tín
đồ cũng không được phép uống rượu bia. Tuy ẩm thực bị ràng buộc bởi giới luật,
nhưng người Chăm vẫn sáng tạo nhiều món độc đáo, hiện nay nay trở thành đặc sản
như tung lò mò (lạp xưởng bò), cơm nị, cà púa…
 |
Trang phục của một vị Haji tại
Katampong (Ảnh: Vĩnh Thông)
|
Về trang phục,
xà rông là trang phục truyền thống của người Chăm. Người Chăm An Giang nổi tiếng
khéo tay với nghề thủ công dệt thổ cẩm, bắt nguồn từ việc dệt trang phục phục vụ
mục đích sử dụng của cá nhân và gia đình, sau đó trở thành làng nghề với những
sản phẩm tinh xảo. Các loại xà rông, khăn choàng, túi xách… của người Chăm An
Giang ngày nay có mặt khắp các thành phố lớn trong nước và cả Đông Nam Á. Ngoài
ra, nam giới thường đội nón trắng (già) hoặc đen (trẻ), nữ giới phải choàng
khăn che kín mái tóc nhưng không che mặt phụ nữ Islam ở Trung Đông.
Về cư trú,
nhà sàn hình thức truyền thống được người Chăm chọn từ khi mới đến vùng đất
này, nhằm thích ứng với môi trường đồng bằng thường ngập úng vào mùa nước nổi. Những
ngôi nhà sàn có phong cách độc đáo, tùy điều kiện từng gia đình mà mỗi nhà có kết
cấu và loại gỗ khác nhau, trong đó có những ngôi nhà tuổi đời hàng trăm năm. Nhà
sàn của người Chăm cũng có nhiều nét tương đồng gần gũi với nhà sàn của người
Việt ở Nam Bộ, tuy nhiên về đại thể vẫn dễ dàng nhận ra sự khác nhau. Nhà sàn của
người Chăm có mái chính nằm xuôi theo chiều dài căn nhà, mái phụ nằm ngang ở mặt
trước và mặt sau, mặt tiền nhà hướng theo trục dọc, cầu thang nằm ở chính giữa
nhà.
Về kiến trúc,
mỗi làng Chăm ở An Giang đều có những masjid
(thánh đường) và surao (tiểu
thánh đường). Trung tâm
văn hóa Chăm của làng Katambong là thánh đường Jamiul’Aman. Kiến trúc thánh
đường mang
phong cách Ả Rập với màu sắc chủ đạo là nền xanh non viền chỉ trắng, trên nóc có
một bán cầu nhô cao, bốn góc có bốn tháp. Khắp thánh đường có nhiều biểu tượng
trăng lưỡi liềm và ngôi sao của Islam giáo. Thánh đường thoáng sáng vì có dãy
hành lang và nhiều cửa, nội thất được trang trí đơn giản, tuyệt nhiên không có
hương án hay hình tượng mà chỉ có một lỗ thủng lõm vào gọi là hậu tẩm. Người
Islam quan niệm Allah có mặt khắp mọi nơi, không hình tượng nào có thể biểu hiện
được Allah.
Về giao thông,
Nam Bộ là vùng đất sông nước, người Chăm phải lựa chọn phương tiện phù hợp với
điều kiện địa hình, xuồng ghe tất yếu đóng vai trò quan trọng. Đối với
Katampong cũng thế, do địa hình cù lao và người Chăm nơi đây lại giỏi nghề đánh
bắt cá, nên phương tiện giao thông truyền thống mà họ thông thạo là ghe xuồng. Chuyên khảo về tỉnh Châu Đốc cung cấp
thông tin: “Họ chèo thuyền đi khắp xứ, tự đảm nhận việc chèo thuyền để tránh
tăng thêm chi phí. Số thuyền mà những người Mã Lai và người Chăm đăng ký trong
tỉnh Châu Đốc lên đến 754 chiếc” [Hội Nghiên cứu Đông Dương 2017: 79].
4. Văn hóa phi vật thể
Về tổ chức cộng đồng,
đứng đầu mỗi palei (làng) có một Hakim (giáo cả) chịu trách nhiệm về mặt tôn
giáo và người phụ tá gọi là Naep, bên cạnh đó còn có Ahli được xem như người quản
lý các xóm. Những người sau khi hành hương đến thánh địa Mecca (Arab) về sẽ được
gọi là Haji và được cộng đồng trọng vọng. Trong phạm vi gia đình, người Chăm ở
An Giang theo chế độ phụ hệ, nhưng tàn tích của chế độ mẫu hệ cổ truyền vẫn
còn. Chẳng hạn trong hôn nhân, mặc dù nam giới chủ động cưới vợ, nhưng nhà trai
không rước dâu mà sẽ đưa rể sang nhà gái để làm lễ.
Về tôn giáo,
người Champa xưa ngoài tin vào các thần linh dân gian, còn có ba tôn giáo chính
là Bàlamôn, Bàni, Islam. Phật giáo từng có thời kỳ ảnh hướng ở Champa nhưng đã
sớm lụi tàn. Người
Chăm ở An Giang theo Islam (Hồi giáo chính
thống) dòng Sunni và xưng là người Islam. Đặc biệt, nếu ai lần đầu
có dịp xem một buổi cầu nguyện của người Chăm, chắc hẳn sẽ không khỏi ngạc
nhiên về sự điêu luyện của họ khi đọc kinh Qur’an. Họ gọi là đọc kinh chứ không
phải hát, ngâm, diễn xướng… cũng không sử dụng nhạc cụ. Song, giọng đọc lại du
dương, khi trầm lắng khi vút cao, những đoạn ngân dài uyển chuyển. Lời kinh đầy
nhạc tính ấy trỗi lên giữa thánh đường chật ních nhưng vô cùng trang nghiêm và yên
tĩnh, tạo nên ấn tượng mạnh với những ai có dịp chứng kiến.
Hành lễ tại thánh đường Jamiul’Aman trưa thứ Sáu (Ảnh: Vĩnh Thông)
Về phong tục - lễ hội,
người Chăm gắn
bó mọi sinh hoạt hằng ngày với thánh đường, các nghi lễ đa phần được tổ chức ở
đây. Theo truyền thống, mỗi ngày họ cầu nguyện năm lần. Đến trưa thứ sáu hằng
tuần, nam giới tắm rửa sạch sẽ, mặc trang phục truyền thống đến thánh đường
hành lễ (họ gọi là xem lễ), nữ giới làm lễ tại nhà. Họ có tháng nhịn ăn Ramadan vào
tháng 9 Hồi lịch (khoảng tháng 4 - 5 dương lịch), kết thúc tháng này họ tổ chức
lễ Roya vào ngày 1 tháng 10. Ngoài ra trong năm người Chăm còn nhiều lễ khác,
chủ yếu liên quan đến tôn giáo.
Về văn
học nghệ thuật, dù bị hạn chế vì lý do tôn giáo, nhưng người Chăm ở An
Giang vẫn bảo lưu nhiều loại hình ca múa dân gian độc đáo như hát giao duyên, hát ống, họ, vè, hát đố, hát
ru, đồng dao… Có lẽ
không quá lời khi nói rằng, âm nhạc Chăm An Giang đều xoay quanh tiếng trống. Bộ trống Rap Panà là nhạc cụ truyền thống của người
Chăm Islam đứng trước nguy cơ mai một và đang được phục hồi. Nó có nguồn gốc từ trống Paranưng của người Chăm
Trung Bộ, tuy nhiên mục đích và cách biểu diễn khác biệt. Bộ trống này được
trình diễn vào những ngày lễ tết và chỉ dành cho nam giới, khi đó những nhạc
công ngồi thành hình bán nguyệt, vừa chơi trống vừa đồng ca.
Tóm lại, người Chăm ở An Giang nói
chung và Katambong nói riêng là những người hiền hòa trong ứng xử, cần cù trong
lao động và tự hào về văn hóa của mình. Họ có niềm tin tôn giáo mãnh liệt, có
tinh thần tự giác và ý thức cao trong việc thực hiện các quy tắc cộng đồng.
Cuộc sống họ gắn bó hòa đồng với người Việt, Khmer, Hoa và cùng nhau đóng góp
những giá trị đặc sắc cho văn hóa địa phương.
VĨNH
THÔNG
(Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Định hướng khai thác các giá trị văn hóa Chăm
trong phát triển du lịch An Giang, Trường Đại học An Giang, tháng 6/2019)
______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Dohamide
& Dorohiêm (2006), “Từ một thôn ấp Chăm khép kín”, Website Thất Sơn - Châu Đốc (www.thatsonchaudoc.com), 24/6/2006.
2.
Hội Nghiên cứu Đông Đương (2017), Chuyên khảo về
tỉnh Châu Đốc, Nguyễn Nghị & Nguyễn Thanh Long dịch, Nxb Trẻ.
3.
Lý Tùng Hiếu (2016), Các vùng văn hóa Việt Nam,
Giáo trình Trường ĐH Văn hóa TP.HCM.
4.
Nguyễn
Đình Đầu (1995), Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn: An Giang, Nxb TP.HCM.
5.
Nguyễn Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp
thuộc (1859-1954), Nxb Tổng hợp TP.HCM.
6.
Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt
Nam, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên.
7.
Trịnh Hoài Đức (2004), Gia Định thành thông chí,
Lý Việt Dũng dịch & Huỳnh Văn Tới hiệu đính, Nxb Tổng
hợp Đồng Nai.
8. Võ
Thành Phương (2007), Tìm hiểu An Giang
xưa, Văn nghệ An Giang.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét