1. Dẫn nhập
Người Hoa định cư tại Trung Bộ và Nam
Bộ Việt Nam gồm năm nhóm phương ngữ: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải
Nam, Khách Gia. Họ có nhiều nét văn hóa tương đồng với nhau bởi vốn cùng một gốc
gác, song trong từng nhóm lại có không ít đặc điểm riêng góp phần phân biệt với
các nhóm khác. Trong đó, tập tục thờ cúng 108 vị Chiêu Ứng Anh Liệt (có nơi gọi
là Nghĩa Liệt Chiêu Ứng) đã trở thành đặc trưng văn hóa và cũng là “đặc điểm nhận
dạng” của cộng đồng người Hải Nam. Thực hành tín ngưỡng nầy còn là một trường hợp
đặc biệt bởi bắt nguồn từ sự kiện có thật trong lịch sử Việt Nam.
2. Nguồn gốc tục thờ
108 vị Chiêu Ứng Anh Liệt mà người Hoa
Hải Nam thờ cúng vốn là những thương buôn đường biển. Trung tuần tháng 6 âm lịch
năm Tân Hợi 1851, họ lên đường về thăm quê ở đảo Hải Nam. Khi đó, chiếc tàu Bằng
Đoàn của quân đội triều Nguyễn đang tuần tra trên biển, do Chưởng vệ Phạm Xích
và Lang trung Tôn Thất Thiều chỉ huy. Đến vùng biển Quảng Ngãi, tàu Bằng Đoàn gặp
ba chiếc tàu buôn của người Hải Nam, bèn bắn súng thần công khiến ba chiếc tàu
giong buồm bỏ chạy.
Ba ngày sau, tàu Bằng Đoàn bắt kịp ba
chiếc tàu kia và bắn vỡ một chiếc, một chiếc bỏ chạy, một chiếc bị bắt. Sau khi
khám xét biết là thương buôn Hải Nam chứ không phải hải tặc, nhưng do trên thuyền
có nhiều hàng hóa quý giá, Tôn Thất Thiều và Phạm Xích nổi lòng tham, bèn ra lệnh
giết hết những thương nhân và ném xác xuống sông để chiếm đoạt của cải. Họ báo
về triều đình công lao dẹp được đoàn tàu hải tặc và xin ban thưởng.
Song vua Tự Đức sanh nghi, vì đánh
nhau với hải tặc mà quân đội ta không ai bị thương tích gì trong khi phía bên
kia thì chết sạch, nên vua đã cho điều tra lại. Dân gian kể rằng cùng lúc đó,
hôm nọ có một nhóm khách đến ăn trong một quán ăn ở phố Gia Hội (Huế) nhưng
không đủ tiền trả, một người bèn tháo chiếc nhẫn mình đang đeo trên tay ra cầm
tạm. Bà chủ quán nhận ra đây là nhẫn của chồng mình, cũng là một thương buôn Hải
Nam, nên sanh nghi và vào thành đánh trống kêu oan. Lại có lời truyền khẩu rằng
oan hồn các thương buôn đã hiển linh báo mộng cho vua xin giải oan.
Trong Đại Nam thực lục, Quốc sử quán chép: “Vua lấy làm ngờ, sai quan bộ
Binh đến khám phúc tâu. Rồi thì Đội trưởng vệ Tuyển phong là bọn Trần Hựu thú rằng:
Ngày 18 tháng này, thuyền quan đậu ở cửa biển Thi Nại, được tin báo có ba chiếc
thuyền dị dạng ở phận biển đảo Thanh Dữ, bọn Xích đuổi theo bắn, thuyền ấy tịnh
không bắn đối địch lại, chỉ hướng về phía đông chạy xa mà thôi. Kịp lúc đến gần
một chiếc thuyền ấy, vừa mới bắn một phát thì thuyền ấy cuốn buồm lại tới thuyền
quan, đến 33 người trình thẻ thuyền. Có kẻ nói rằng nguyên trước ngụ ở phố Thừa
Thiên, cùng Tôn Thất Thiều có quen biết. Nhưng Thiều cho là người buôn gian lậu
nên bắt chém. Xích cũng theo lời, bèn sai bọn Dương Cù (Suất đội Thuỷ sư) đem
người trong thuyền giết hết (76 người ném xác xuống biển)” [Quốc sử quán triều
Nguyễn 2002: 161].
Sau khi tra xét rõ ràng, hai kẻ chủ mưu bị xử lăng trì, năm viên quan khác bị xử
trảm, những tòng phạm khác bị giáng chức, tịch biên gia sản, đày ra biên ải…
Vụ thảm án khiến vua Tự Đức phải than rằng: “Chúng là một lũ giảo quyệt, tham
lam và độc ác, không có chút nhân tính. Tội chúng là trọng tội! Ôi chao nghĩ đến
mà quả nhân đã thấy run lên vì sợ và quả nhân cảm thấy đau đớn khi diễn đạt sự
độc ác như thế!” [Hàng Quốc Định 2011]. Tác giả Nguyễn Văn Toản [2015: 11] nhận
định bản án đã “thể hiện được sự sáng suốt của vua Tự Đức trong bang giao với
Trung Quốc, nhất là trong chính sách bảo vệ ngoại kiều đến làm ăn, buôn bán với
nước ta, làm cho nước ta không bị Trung Quốc có cớ gây khó dễ về mặt chính trị”.
Về phía các nạn nhân, để an ủi vong hồn
người chết oan, vua cho lập trai đàn chẩn tế ở cửa biển Thuận An. Đồng thời, sắc phong cho những vong linh là Chiêu Ứng
Anh Liệt và cho phép được lập miếu thờ phượng, vì cho rằng họ đã linh ứng sau
khi qua đời. Tương truyền, sau nầy các vị ấy còn thường xuyên hiển linh giúp đỡ
nhiều tàu thuyền gặp nạn trên biển. Từ đó, người Hoa Hải Nam lập miếu thờ Chiêu
Ứng Anh Liệt ở những nơi có đông cộng đồng mình sinh sống.
3. Hiện trạng thờ tự
Tục thờ cúng Chiêu Ứng đã được cộng đồng
Hoa Hải Nam mang đi nhiều nơi theo dấu chân lập nghiệp của họ, không chỉ ở dãy
đất Trung Bộ mà còn có mặt ở Nam Bộ và các nước lân cận.
Ở Huế họ thành lập Chiêu Ứng từ nằm đối diện cồn Phú Cát, ngôi
miếu đến nay còn mang giá trị nghệ thuật cao. Ban đầu, Chiêu Ứng Anh Liệt được
phối thờ ở Quỳnh Châu hội quán (miếu thờ Thiên Hậu). Đến năm 1887, người Hoa phố
Gia Hội quyên góp xây cất riêng ngôi Chiêu Ứng từ, tọa lạc ở vị trí hiện nay
nhưng với quy mô nhỏ. Sau nầy, để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, đến
năm 1908 ngôi miếu được trùng tu lớn do các nghệ nhân người Hải Nam đích thân
thực hiện. [Triệu Phong 2009]
Ở Hội An (Quảng Nam) có Quỳnh Phủ hội quán, hay còn gọi là Hải Nam hội quán. Đây là công trình cổ mang
đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa. Ngôi miếu được xây dựng năm 1875, vừa làm
nơi thờ Chiêu Ứng Anh Liệt, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng người Hoa Hải Nam ở
Hội An. Đến nay đã trải qua hơn trăm năm, nhưng công trình vẫn được bảo tồn gần
như nguyên vẹn và trở thành điểm đến hấp dẫn du khách ở Hội An.
Tại Đà Nẵng cũng có chùa Chiêu Ứng có quy mô lớn, tên chính
thức là Chiêu Ứng Công từ, nhưng dân
gian quen gọi là chùa. Chùa được trùng tu như kiến trúc hiện nay vào năm 1968, giữa
sân có bát giác đình thanh tao và trang nhã. Trong chánh điện chùa còn trân
tàng một di vật giá trị là lá cờ của vua Tự Đức truy tặng với dòng chữ “Sắc
phong Chiêu Ứng Anh Liệt, phổ phong Dực Bảo Trung Hưng” [Nguyễn Văn Hoàn 2013].
Tỉnh Khánh Hòa có hai miếu thờ Chiêu Ứng
Anh Liệt. Chiêu Ứng từ ở phường Vĩnh
Nguyên (TP. Nha Trang) có cách nay hơn một thế kỷ, tuy nhiên không rõ chính xác
năm xây dựng. Ban đầu miếu tọa lạc ở đảo Trí Nguyên, đến năm 1933 do chiến
tranh nên được dời vào vị trí hiện nay [Hàng Quốc Định 2011]. Ở thị trấn Vạn
Giã (huyện Vạn Ninh) cũng có Chiêu Ứng từ,
người địa phương quen gọi là chùa Tàu.
Ngôi miếu có từ năm 1851 và cũng đã được vua Tự Đức ban sắc phong [Nguyễn Man
Nhiên 2007].
Ở cực Nam Tổ quốc có Hải Nam cổ miếu nằm ở trung tâm thành phố
Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Ngôi miếu vốn dĩ là Chiêu
Ứng từ, nơi thờ 108 vị Chiêu Ứng Anh Liệt. Trước sân miếu có dựng bia đá lớn
với nội dung viết bằng chữ Hán và Quốc ngữ: “Sắc phong bách bát anh linh, sắc
phong Chiêu Ứng Anh Liệt, tấn phong Dực Bảo Trung Hưng, Tự Đức tứ niên thập nhị
nguyệt thất nhật”.
Ngoài những ngôi miếu tiêu biểu vừa kể
thì trải dài khắp các tỉnh từ duyên hải miền Trung đến Nam Bộ Việt Nam, tục thờ
Chiêu Ứng Anh Liệt dưới hình thức thờ chính hoặc phối thờ còn có mặt ở nhiều
nơi như Phan Rang, Sài Gòn, Kiên Giang… Thậm chí tín ngưỡng nầy còn được mang đến
các nước lân cận mà người Hải Nam có mặt như Indonesia, Maylaysia… cũng dưới
hình thức lập miếu thờ hoặc phối thờ bài vị trong một ngôi miếu khác [Nguyễn Ngọc
Thơ 2017]. Tại nguyên quán những thương nhân tử nạn là đảo Hải Nam cũng có ngôi
miếu Chiêu Ứng được xem là “miếu tổ” với quy mô lớn nhứt so với các nơi khác. Bên
cạnh đó trên đảo Hải Nam “còn có không biết bao nhiêu chùa cô hồn dọc theo mé
biển đã lập ra gần một thế kỷ rồi […] nhứt là trong những xóm có tàu buôn và
tàu đánh cá, vì họ thường linh đinh trên mặt bể” [Nghê Văn Lương 1972: 174].
4. Giá trị văn hóa
Trong quá trình phát triển của cộng đồng
người Hoa Hải Nam ở Trung và Nam Bộ Việt Nam, ý nghĩa trọng tâm của tục thờ
Chiêu Ứng Anh Liệt biến đổi theo thời gian. Ban đầu, họ thờ Chiêu Ứng với ý
nghĩa tưởng nhớ người đã khuất. Bên cạnh đó trong hoàn cảnh giao thương đường
biển đầy bất trắc thời bấy giờ, họ thờ Chiêu Ứng còn nhằm để gửi gắm sự cầu mong
được phù hộ an toàn cho những chuyến buôn của mình. Dần dần qua thời gian, đời
sống phát triển, tín ngưỡng Chiêu Ứng trở thành biểu tượng văn hóa đặc thù giúp
họ thể hiện những giá trị của cộng đồng, khu biệt và nhận dạng cộng đồng mình với
những cộng đồng người Hoa khác.
Tóm lại, tập tục thờ cúng 108 vị
Chiêu Ứng Anh Liệt của người Hoa Hải Nam bắt nguồn từ một sự kiện có thật trong
lịch sử Việt Nam triều Nguyễn. Hơn trăm năm qua, người Hoa Hải Nam mang theo tục
thờ nầy đến nhiều nơi trên đường lập nghiệp, từ trở một hình thái tín ngưỡng của
cộng đồng, qua thời gian nó được nâng lên thành biểu tượng góp phần kiến tạo bản
sắc tập thể.
VĨNH THÔNG
(Tạp chí Đồng Tháp xưa và nay, số 58, tháng 10/2017)
______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Hàng
Quốc Định (2011), “Sử tích Chiêu Ứng từ tại Nha Trang”, Website Trung học Khải Minh (www.khaiminh.org)
2.
Nghê
Văn Lương (1972), Cà Mau xưa và An Xuyên
nay, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục.
3.
Nguyễn
Man Nhiên (2007), “Vạn Ninh đất và người”, Website
Văn chương Việt (www.vanchuongviet.org), 6/8/2007.
4.
Nguyễn
Ngọc Thơ (2017), Tín ngưỡng Thiên Hậu
vùng Tây Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
5.
Nguyễn
Văn Hoàn (2013), “Sinh hoạt tín ngưỡng của bang hội người Hoa Hải Nam ở thành
phố Đà Nẵng”, Tạp chí Huế xưa và nay,
số 115.
6.
Nguyễn
Văn Toàn (2015), “Các giai thoại vụ án dưới triều vua Tự Đức”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 228, tháng
7/2015.
7.
Quốc
sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực
lục, Viện Sử học dịch, tập 7, Nxb Giáo dục.
8.
Triệu
Phong (2009), “Thăm Chiêu Ứng từ ở Huế và nhìn lại vụ án thảm sát 108 người Hoa
dưới triều Tự Đức”, Tạp chí Hợp Lưu,
số 98, tháng 1/2009.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét