Năm Rựa dẫn tôi lên thăm núi
giữa đồng bằng nên đường đi cũng dễ. Từ thị xã, chạy xe máy chỉ già một buổi là
tới.
Chúng tôi tới chân Núi Dài
Lương Phi lóng ba giờ chiều. Ngôi nhà trống trếnh, có vẻ như vắng chủ. Bốn phía
bao bọc toàn tầm vông. Cây nào cây nấy sáng lên ong óng, chắc lõi; có điều, lá
trên cây chỉ còn lớt phớt, lại oi lên màu vàng hực như bị lửa hun. Hai chúng
tôi vừa dựng chiếc xe dưới gốc xoài khô khẳng, đã thấy từ đâu phóng ra một chú
phèn lực lưỡng, bụng thót, tai dựng, ức rộng, có móng đeo lủng lẳng dưới bốn
chân. Chú phèn không sủa rít lên, trái lại chú vẩy đuôi rối rít, hết liếm tay
lại hửi hạ bộ Năm Rựa, tuồng như chú đã quen với với Năm Rựa từ hồi nào đến
giờ. Quanh quẩn bên Năm Rựa một chập, chú cong đuôi phóng biến vào đám tầm vông.
Nó đi gọi chủ nhà (Năm Rựa nói
với tôi). Ông tranh thủ ra sau nhà tắm một miếng cho mát.
Cái lối tắm giữa đồng bằng của
tôi là cứ đứng xổng lưng mà dội ào ào. Đã thiệt. Suốt cả chặng đường dài lầm
bụi, chỉ có nắng khét và gió hầm hầm quần thảo, giờ được xối đẫm nước, da thịt
nghe cứ lịm đi rười rượi.
Trời ạ! Cha nội tắm kiểu đó,
chết phần con nghen cha! Ở đây khan nước, người ta tắm xà tón, chỉ mỗi chậu
nước là sạch sẻ cả người. Tắm cái kiểu cha, có mà bán nhà mua nước.
Năm Rựa vừa dứt lời, tôi đã
nghe tiếng phụ nữ chen vào:
Anh Năm, cứ để ảnh tắm thoải
mái. Lương Phi giờ không khát nước nữa đâu mà sợ.
Người mới nói là một phụ nữ
vóc người tầm tầm, da bánh mật, coi giòn như cái bánh cam. Gương mặt chị ta chỉ
thấy sáng lên đôi mắt là đẹp.
Năm Rựa vỗ vai chị ta một cách
vồn vã.
A, chào bà chủ! Vậy chớ ổng
đâu?
Ảnh trên núi, anh Năm à!
Vậy hả! Vậy bà khỏi lo cơm
nước, tụi tui tắm xong, uống miếng nước rồi lên trển, có gì nhậu, bà sắp sẵn
cho một mớ.
* * *
Túp lều canh rừng của Bảy Toài
cất thoi loi trên núi. Lúc chúng tôi leo lên tới nơi, còn cách khoảng hơn chục
mét, tôi nhác thấy bóng một người phụ nữ chạy cun cút vô lùm cây. Liền đó, Bảy
Toài hiện ra lừng lửng trước túp lều với bộ quần áo xộc xệch, đầu tóc rối bù.
Nhận ra Năm Rựa, Bảy Toài như muốn nhảy dựng lên mừng rỡ.
Ôi trời, anh Năm! Anh lên tới
hồi nào?
Năm Rựa với Bảy Toài ôm chầm
lấy nhau, hệt như hai con gấu.
Mầy vừa léng phéng với đứa nào
phải hông?
Bảy Toài cười vả lả:
Báo cáo anh, vẫn con Chín chớ
ai. Nó đeo em đã hai năm nay, em thả nó ra, chắc nó chết.
Nói xong, Bảy Toài bụm hai bàn
tay làm loa gọi rum trời:
Chín, Chín ơi! Vô làm mồi Chín
ơi! Có khách quý nè!
Người tên Chín chắc khoảng hăm
ba hăm bốn tuổi, cô ta coi bầu bầu như con vịt xiêm, cặp mắt sắc lẻm cứ liếc
ngang liếc dọc, đôi môi mọng lên như hai trái ớt. Sau này tôi mới biết, cô ta
từng bị dụ bán qua biên giới làm điếm trong nhà thổ. Bảy Toài bỏ tiền chuộc cô
ta đem về, rồi bị cô ta đeo dính như vợ chồng. Vợ Bảy Toài lúc đầu cũng làm
mình làm mẩy dữ dằn, nhưng rồi sau thấy cô ta giúp được việc cho chồng trên
núi, dần dà cũng nguôi đi, thây kệ chồng đối xử với cô ta ra sao cũng được. Tôi
đồ chừng, có lẽ do vợ Bảy Toài ăn ở với chồng hơn mười năm mà không có con,
thành ra chị mới chịu lép cho Bảy Toàn kiếm thêm bà nhỏ.
Đêm đó, dẫu ở chon von trên
núi, bữa tiệc vẫn có rượu ngon, mồi ngon, và có cả thuốc lá thơm.
Năm Rựa tay thì bóc gói Jet,
nhưng miệng lại nói:
Dẹp thứ này nha cha! Tụi tui
hút thuốc đen quen rồi. Cha làm như tỉ phú không bằng.
Báo cáo anh, tỉ phú thì em
chưa, chứ triệu phú thì em có thừa. Quanh đây, ngon ngót gần ba chục héc ta
rừng là của em. Sao, dâu, keo, xoài, mít, lại còn hơn cả năm ngàn cây trầm tóc.
Mấy ông khoa học kích thích gen sao đó, trầm tóc chỉ trồng năm bảy năm đã cho
bắp trầm thơm lựng, tha hồ bán hốt bạc. Chục năm nữa, nếu trời không bắt giò,
em lên tỉ phú. Chừng đó, cất hẳn tòa biệt thự kế dồ Ma Thiên Lãnh tiếp mấy anh.
Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, Bảy
Toài cười cười:
Cái dồ đá núi Dài Lương Phi
này thiêng lắm. Cấp trước cọp vẫn leo mỏm đá ngắm trăng, nhiều khi động cỡn kêu
um cả đêm. Tới thợ săn còn ngán đến đây, đừng nói dân sơn tràng. Bởi vậy, người
ta mới kêu là dồ Ma Thiên Lãnh.
Bữa tiệc nhậu thịt chuột núi
xào lá cách, thịt rắn mối ướp sả chiên, có cả cà chua hườm hườm xắt lát, có cả
trăng lưỡi liềm chênh chếch treo ngang, Bảy Toài tỏ ra là người hứng nhất. Ngất
ngư men rượu, anh ta kể đủ thứ chuyện trên đời.
Năm 1978, cả nhà Bảy Toài bị
lính Pôn Pốt đập đầu chết trong chùa ở Ba Chúc. Gần cả trăm con người ta chạy
vô chùa nương cửa Phật bị giết. Máu chảy lênh láng ngập ngụa. Bảy Toài là đứa
bé mười bốn tuổi duy nhất còn sống. Bảy Toài lồm cồm bò ra từ đống xác thịt bấy
nhầy, mình mẩy dính bết máu đặc quánh. Như cái xác không hồn, Bảy Toài trườn
lết tới gần sáng thì tới được chân núi. Không ai ngoài linh tính mách bảo, Bảy
Toài mò tới đống xác chất chất xếp lớp, rúc vô nằm vùi trú nắng cả ngày. Đêm
xuống, chờ lúc trời tối hù tối hịt, Bảy Toài lại la lết trườn như con rắn
lên núi Dài. Trốn chui trốn lủi trong lùm, trong bụi, trong hốc đá suốt sáu bảy
ngày; le lưỡi liếm sương, vẹo mồm nhai lá, Bảy Toài qua được sáu ngày trên núi,
sang ngày thứ bảy thì gặp bộ đội sư 320 cứu về, sống nhăn tới tận bây giờ.
Lớn lên, gặp lúc túng cùng,
Bảy Toài tự xung vào đội quân buôn lậu xe Honda qua biên giới. Công việc chủ
yếu là chạy xe Honda cho người ta từ Nông Pênh về nước, hưởng tiền đầu xe và
hưởng tiền cò bán xe. Trong một chuyến chạy xe về cho chủ vựa, Bảy Toài gặp cô
Nghi lả đi vì khát bên gốc thốt nốt, lúc đang còng lưng cõng thuốc lá thơm giữa
đồng năng nắng đổ chang chang. Động lòng với người cùng cảnh ngộ, Bảy Toài chở
cô Nghi đi trót lọt về tới Châu Lăng. Gái buôn chui, trai buôn lậu, hai người
tựa lưng vào nhau làm ăn. Không ít lần họ bị thuế vụ, bị biên phòng bắt giữ.
Hồi đó Năm Rựa từng là lính biên phòng, từng bắt giữ Bảy Toài nhốt trong đồn
mấy chục lần, nhờ vậy mà họ quen nhau.
Chuyện Bảy Toài cưới vợ
cũng lạ đời.
Lần đó Bảy Toài với cô Nghi
vượt kinh Vĩnh Tế qua biên giới. Đang trên đường đi kiếm hàng, họ gặp một con
trâu lạc. Thấy con trâu cui còn sợi dây thừng xỏ qua mũi lòng thòng, hai người
xúm lại, kẻ dắt người đập, lôi luôn nó đem về. Nửa đêm hôm sau họ vượt qua biên
giới trót lọt. Chiều hôm sau, họ đang dong trâu dọc theo biên giới thì gặp
giông. Giông nổi đùng đùng vần vũ. Thấy cái chòi bán nước để trống bên đường,
cả hai cột trâu vô gốc cây kế cái chòi, chun vô chòi đụt mưa. Gió quần tơi tả.
Mưa trút ào ào. Sét đánh nhoáng nhoàng. Sấm gầm chuyển đất. Màn đêm chụp đen
kịn như đúc thành miếng. Màn đêm và giông gió cột hai người lại với nhau, hòa
tan họ vào cơn sung mãn của đất trời sôi sục. Đang lúc mùi mẩm tột cùng, thốt
một lưỡi tầm sét xanh lè bủa thẳng xuống ngọn cây sát căn lều một tiếng nổ chói
óc. Hai con người trần trụi văng ra khỏi nhau. Mùi khét lẹt sực lên nồng nặc.
Cây sao cổ thụ bị đánh chẻ thân rách toác. Con trâu cui bị đánh chết
thui, nằm chổng vó. Thoát được con thịnh nộ huyền bí ấy, hai người biện
lễ vô chùa tạ ơn thần thánh, rồi đưa nhau về Lương Phi lập nghiệp. Chung đụng
ăn ở với nhau hơn năm trời, bấy giờ hai người mới sực nhớ tới pháp luật, kéo
nhau ra ủy ban lăn tay lập giấy hôn thú.
Đồng tiền buôn lậu ở bạc với
người. Không đầy hai năm đầu ấp tay gối với nhau, bao nhiêu bạc tiền cắc củm
một thời chui lủi luồn lách, hè nhau kéo đi tuốt luốt. Vợ chồng Bảy Toài ra
ngồi chợ xã bán cá đen, bán bông súng, cù nèo, đắp đổi sống lay lắt qua ngày.
Tới một hôm Năm Rựa với anh cần vụ đi chơi ghé chợ mua mấy ký cá lóc nhìn thấy,
mới xin được cho Bảy Toài chân kiểm lâm; nhờ vậy giờ mới thành người trồng rừng
miệt Bảy Núi.
Coi cả một triền núi thăm thẳm
mà vợ chồng Bảy Toài chỉ trơ khấc cái nhà lá lụp xụp, cất giáp mí bờ ruộng dưới
chân núi. Bởi vậy, tiếng là người gác rừng, mà không biết đã bao lần Bảy Toài
nhắm mắt làm ngơ, để mặc cho người ta phá rừng. Có ăn bà ăn giải gì lúc đó.
Buông cho họ, họ còn biết điều với mình chút đỉnh, chỉ chặt phá cây nhỏ gọi là,
còn cây to cây quý họ tha cho, họ không đụng vào. Đói quá thì ai cũng chăm chắm
lo cho cuộc sống. Buông cho họ, Bảy Toài còn được họ để cho yên thân, được có
lúc rảnh rang, vọt đại qua đường biên cõng hàng lậu đem về, lận lưng vài xấp
giấy bạc.
Gặp lúc nhà nước có chủ trương
khoán rừng, rồi bán rừng, vợ chồng Bảy Toài lúc đầu nhận khoán, về sau mua hẳn
gần ba chục héc ta đất núi theo phương thức trả góp. Vậy là dần dà thành triệu
phú, thành ông chủ, bà chủ. Vốn vay trồng rừng, lập trang trại nuôi ba ba, nuôi
ếch, nuôi rắn ri voi, ri cá, đã gần tỉ bạc. Tiền làm ra hàng tháng, đủ trả lãi
và trang trải lặt vặt; đủ cho lâu lâu Bảy Toài phới về Châu Đốc, Long Xuyên,
tươi mát với bạn bè một chầu tới bến. Giàu thì chưa giàu như người ta ở thành
phố nhà lầu xe hơi, nhưng dầu gì vợ chồng Bảy Toài cũng đã là ông chủ bà chủ,
điều mà cha ông họ có nằm mơ cũng không thấy.
* * *
Năm Rựa lay tôi thức dậy lúc
mặt trời đã lên ngang đỉnh núi.
Dậy húp miếng cháo nóng cho
tỉnh, rồi lang thang cho biết Bảy Núi thời chuyển mình, cha ơi! Ở đó nằm một
chỗ ngủ hoài thì biết gì!
Không biết cô Chín xuống núi
hồi nào, mà mới bảnh mắt đã có nối cháo rắn ri voi nấu đậu xanh nước cốt dừa
thơm lựng.
Lại vẫn Bảy Toài cười cười với
tôi.
Báo cáo anh, đã nói em là
triệu phú mà. Triệu phú không tiền trong túi nhưng vẫn cứ là triệu phú. Triệu
phú theo kiểu Thất Sơn. Không sẵn tiền trong túi, nhưng vẫn thả sức ăn xài xả
láng. Nói thiệt, gạo thơm Jacmin của Mỹ nấu cơm ăn dở ẹc, nhưng nấu cháu thì
khỏi chê. Cái khoản cháo rắn, cần nhất là gạo phải dẻo phải thơm. Hèn chi tụi
Mỹ không biết ăn cơm, chỉ biết ăn súp. Coi như bữa nay anh em mình ăn súp cháo
rắn.
Con ri voi chắc phải nặng tới
hai ký rưởi là ít. Thịt rắn trắng tươi, ngọt lừ. Đối với nó, thịt gà chẳng là
cái đinh gì. Tôi vừa ăn vừa tiếc. Không phải tiếc con rắn mắc tiền, tiếc là
không có chai rượu nếp thượng thặng. Mồi bén ngon vậy mà ăn suông thì uổng quá,
phí của trời quá thể.
Như biết ý tôi, Bảy Toài lại
cười cười.
Em còn rộng sẵn trên núi cả hổ
đất, cả tê tê, kỳ đà. Muốn ăn, hai anh cứ ở lại chơi vài ngày. Ếch rùa dưới ao,
chồn cáo trên núi. Đất này của em. Báo cáo với hai anh, em yên trí lắm. Từ cái
hang cái hốc, em không bỏ sót nơi nào. Con rắn, con chồn, con cáo nào ở đâu,
coi như em rộng sẵn ở đó. Có điều phải biết ăn biết để. Ăn hết rắn, chuột kéo
đàn phá hết mầm cây, làm sao em giữ nổi mấy ngàn cây trầm tóc mới trồng, theo
chương trình rừng mưa nhiệt đới do tụi nước ngoài nó tài trợ. Hôm nay gặp mấy
anh, vung tay chơi một trận cho đã. Đời mà!
Ngay tróc Bảy Toài là người
rất đời, rất điệu đời. Ăn sạch bách nồi cháo, dù hai chúng tôi no cành hông,
chỉ muốn nằm ì ra, Bảy Toài cũng nhất mực buộc chúng tôi phải xuống núi đi nhậu
bia.
Mấy anh biết sao hông? Trên
núi em rộng rắn, dưới núi em rộng rùa, nhưng mà em báo cáo, rắn trên núi muốn
bắt phải có thời gian, rùa dưới ao nhà em còn nhỏ, rùa em rộng ở quán nặng hàng
ký ăn mới ngon. Bây giờ em là tổng giám đốc trồng rừng, bà Nghi là tổng giám
đốc trang trại, bà Chín là giám đốc tư vấn.
Năm Rựa nhìn tôi nói:
Thằng Bảy mồi côi này coi vậy
mà giỏi. Nhà có hai bà mà nó cầm cương chắc khụ. Tính toan đâu vào đấy.
Bảy Toài cười giả lả.
Coi vậy mà không phải vậy, anh
Năm ui. Bà Chín đây vô tư làm lẻ, chứ bà Nghi thì ngấm ngầm dữ lắm. Bả ngoài
mặt phân công thời gian sống chung đụng hàng tháng, chứ tháng nào sống một
mình, bả cũng lên chùa hốt thuốc vô sinh, quyết thi đua đoạt chức sanh con
trước. Bởi vậy, tháng nào đến lượt em phải xuống núi, bả vần em cả đêm muốn nhừ
củ tỏi. Có điều từ khi hai bả hòa thuận, em lại khỏe ra, đáp ứng cả hai đâu vào
đấy, chẳng bà nào phàn nàn hay thắc mắc điều gì. Xứ này thiếu đờn ông từ hồi
chiến tranh ì đùng, nên chẳng ai thắc mắc điều tiếng gì. Ưu tiên bà lớn, em
nhường con phèn sống dưới núi với bả. Nói thiệt có dồ Ma Thiên Lãnh làm chứng,
xa con phèn em buồn thúi ruột.
Con phèn là giống chó săn thứ
thiệt. Nó to con, lực lưỡng, dám quần nhau với cả rắn hổ mây, hổ đất. Một bữa
Bảy Toài phát lùm, đánh động một con hổ đất to như bắp tay trờn ra, ngóc đầu
phùng mang phun nọc phè phè. Không có con phèn nhảy xổ từ phía sau ngoạm ngang
cần cổ, vật nhau với con rắn, dám chừng Bảy Toài đã tiêu mạng vì con hổ đất bất
ngờ từ trong lùm cây phóng ra trước mặt rồi.
* * *
Bà Nghi chính phi là người
tham công tiếc việc. Từ trên núi, chúng tôi xuống lúc gần trưa, bà ta đã ra
trang trại lo việc, rồi đi đâu từ hồi nào.
Bả đi thửa mồi cho rắn cho ếch
dưới Tri Tôn. Chiều tối bả về tới, thế nào anh em mình cũng có món mới để nhậu.
Xấu dây tốt củ mấy anh ơi. Cái khoản chiều chồng, bả số dách. Ngặt trời ông
địa, tới giờ tụi em vẫn điếc con. Điếc con bả mới buông xả cho em, chứ không
thì đừng có mà hòng hó hé gì với bả.
Ba chúng tôi thả tà tà trên
hai chiếc xe. Chạy lầm trong bụi và nắng đến Thủy Đài Sơn.
Thủy Đài Sơn là ngọn núi đá có
tên trong Bảy Núi, vậy mà nó nhỏ thó tới không ngờ. Người chơi kiểng cứ tỉnh bơ
gọi nó là hòn non bộ của đồng bằng, mọc làm dáng cho đồng bằng thêm chút đỏng
đảnh liêu trai.
Núi nhỏ như bụm tay, vậy mà
dưới chân núi, lối con đường độc đạo băng qua đồng nước dẫn tới khu vườn chùa
mát rượi, có tới ba cái quán, bày bán ê hề bia rượu. Không biết quán đắt khách
vào mùa nào mùa nào, chứ lúc ba chúng tôi đến nơi, cả ba cái quán đều vắng teo
vắng ngắt, vắng tới sinh tình.
Dẫn chúng tôi vào cái quán
trong cùng, nửa cất dựa vào chân núi lổn nhổn đá cục đá hòn, nửa cát de ra mặt
đầm ỏng nước, mọc đặc ngừ bông súng, Bảy Toài không chút lịch sự, đi xồng xộc
vào cái phòng có treo rèm vải bông màu đỏ, nói oang oang ở trong.
Dậy, dậy! Dậy Út ơi! Bữa nay
anh Bảy có khách ngoài thành. Kéo cho anh thùng bia với con rùa lên núi.
Út đẹp tới không ngờ. Môi đỏ
như bông súng. Da trắng như bông bưởi. Khổ cái là ngực với mông cứ căng vồng
lên như đánh đố. Đã vậy, đôi mắt còn lung liêng lúng liếng như có mồi lửa, sẵn
sàng để ai đó châm vào cho ngún khói, cho bốc lửa, cho cháy rụi thành than.
Bảy Toài tỏ vẻ xắng xai hớn
hở, nói bốc lên:
Anh Năm đây, Út rành rồi hén.
Nhà văn nức nở của xứ mình. Còn anh Ba đây là nhà báo. Ai biểu nhà báo nói láo
ăn tiền? Tầm bậy! Mấy ổng chỉ cần guýnh một chưởng trên giấy nhựt trình, tới
trời cũng tiêu mạng sa tràng, đừng nói tới cái quán của Út. Được mấy ổng khen
nửa bài, đủ lên tới trời xanh. Út ơi, bia với đậu phộng trước đi. Lẹ nghen!
Không biết ở đâu ra một thằng
nhóc chừng mười ba tuổi. Nó đen nhẻm như cục than hầm, chắc lõi như cục gạch
nung. Tóc loăn xoan xoắn tít. Trần trùng trục, thằng bé chân không vác thùng
bia, chạy một lèo lên tận đỉnh núi, vậy mà nó không hề rớt một hột mồ hôi lấy
có. Nó khỏe một phần, mà núi cũng quá nhỏ một phần.
Trên đỉnh núi có một tảng đá
lớn, phẳng rang như ai gọt bằng dao, gọi là trảng đá hay gộp đá cũng được.
Trảng đá gần như có mặt hình vuông. Hai cạnh giáp nhau về phía đông, được xây
quây lại bằng đá tảng tự nhiên, cao ngang tầm ngực. Hai cạnh giáp nhau còn lại,
người nhà chùa của Thủy Đài Sơn đã xây tường gạch thành bao lơn, cao ngang
bụng. Cạnh phía đông xòe tán một cây da cổ thụ. Cạnh phía tây tỏa bóng rợp một
cây bồ đề. Trảng đá thành ra mát rượi, tha hồ mà thi phú, văn chương.
Ê nhỏ (Bảy Toài cao giọng)!
Biểu má Út đem lên thùng bia nữa. Ngoài rùa, còn món gì bén, mần luôn nghen
mầy.
Trên núi lớn của mình, Bảy
Toài tỏ ra thật thà chất phác bao nhiêu, ở núi nhỏ có quán của cô Út nhỏ con,
Bảy Toài lại tỏ ra điệu đời bấy nhiêu. Anh ta khui bia bồm bộp. Anh ta cười nói
rổn rảng oang oang.
Trỏ tay về hướng cầu sắt Vĩnh
Thông, Bảy Toài nói:
Nhà cô Út bị Pôn Pốt bắn chỗ
đó. Chỗ đám ruộng giáp trạm bơm Kinh Mới. Chết ráo. Chỉ mình ên cổ còn sống.
Một thời tui với cổ được tập huấn, đi nói chuyện giáp vòng trong nước về chuyện
đập đầu người diệt chủng của tụi Pôn Pốt Yêng Xa Ri, sống với nhau, ăn cơm với
nhau hoài hà. Mà cấp còn con nít, cổ đâu có đẹp ác ôn như vầy. Xây qua trở lại,
lúc tui có bà xã rồi, tình cờ về Ba Chúc gặp lại cổ, báo cáo thiệt với hai anh,
tui ngó cổ muốn rụng con ngươi.
Cục yết hầu trên cổ Bảy Toài
nhô lên nhọn hoắt. Anh ta ngửa cổ dốc tuột ly bia vào miệng. Cục yết hầu trôi
xuống cái ực; bọt bia đóng thành vòng trắng xốp quanh miệng.
Đã thiệt! Uống bia trên Thủy
Đài Sơn ngọt lịm hà. Chút nữa đây cô Út đem mồi lên tới, tha hồ ngon. Thằng nhỏ
đó là con nuôi. Cô Út tới giờ vẫn sống mình ên. Tui độ chắc cổ bị tụi nó bắn
nhằm chỗ hiểm, chớ ai đời, đẹp vậy mà để chín rụng trái sung bao giờ.
* * *
Chúng tôi trở về ngủ lại chân
núi Dài Lương Phi thêm một đêm. Nói ngủ tức là chúng tôi ở lại, chứ thực ra là
thức trắng. Bởi đêm đó, Bảy Toài hú anh em trong trạm kiểm lâm tới nhậu rần ì.
Dân kiểm lâm Lương Phi ai cũng trẻ khô. Họ đem theo cái chắc lõi của núi đá,
cái tươi nõn của rừng non, ồn ào thả xuống bàn nhậu từng lít từng lít. Họ nhậu
kiểu chìm xuồng tại bến, kiểu xả láng sáng về sớm. Mồi màng chủ nhà dọn ra mới
vơi phân nửa, lập tức đã có anh co cẳng phóng đi, kiếm thêm mồi bổ sung. Có thể
là vài chục hột vịt lộn, vịt xác, vịt ung; có thể là mớ cá khô; có thể là vài
trái xoài xanh. Họ gặp thứ nào bợ thứ nấy đem tới. Cái bàn dã chiến ngoài sân
của Bảy Toài, là thứ bàn tận dụng ống cuốn dây điện trung thế của điện lực bỏ
lại sau khi đã chạy xong đường dây điện cho xã, trong chớp chá đã đầy lùm các
thứ đồ nhậu hầm bà lằng.
Ngược hẳn với lúc ở Thủy dài
Sơn, lúc có người đẹp mặn mà tiếp khách, giờ đây Bảy Toài ra dáng ông chủ nhà,
ăn nói chậm rải, uống từng nửa ly nửa ly chắc nịch.
Xứ tui là xứ núi giữa đồng
bằng. Mùa mưa, nước lũ về ngập linh láng, núi non bồng bềnh như hải đảo. Hồi
xưa, rừng trên núi còn ken dày bít chịt. Rừng chạy từ núi xuống, xông cả ra
đồng. Bởi vậy dân vô rừng ăn ong, phải lội nước lỏm bỏm, thành ra mới nói đi
rừng là lội rừng. Riết rồi thành quen, tuốt luốt gì đâu cũng gọi là lội. Lên
núi thì gọi là lội núi. Đi ruộng thì gọi là lội ruộng. Bơi dưới sông, gọi là
lội sông. Đi bộ cũng gọi là lội bộ. Dân xứ tui là dân xứ núi giữa đồng bằng,
cái gì cũng lội không hà! Lội tới tới. Lội tới tới cùng với nhau kiếm sống. Tới
chơi cũng chơi tới tới, được tới đâu hay tới đó. Mơi mốt đây, cây cối xanh um
như rừng đại ngàn, phải nhà nước cứ cho vay thêm tiền, tụi tui dám mua cọp về
nuôi. Ai đời, rừng mà không có thú thì… Báo cáo thiệt với hai anh… rừng mà
không có thú nó còn ra cái giống ôn hoàng gì!
Quá nửa đêm, chị Nghi vợ Bảy
Toài, khệ nệ bưng nồi cháo gà nóng hổi ra sân, nói chen vào.
Hồi nẳm, ảnh với tui đi bán
rắn hổ cho trại rắn Đồng Tâm, thấy người ta nuôi gấu trong chuồng, ảnh đứng
ngẩn ra như ăn phải bả. Rồi thì xăm xe hỏi giá gấu đực, gấu cái, hỏi cách nuôi
gấu; làm như ảnh đang có trong túi bạc tỉ. Ai chớ ảnh, tui rành sáu câu. Hễ có
tiền, ảnh mua liền cái rụp. Ảnh có tiếc tiền bao giờ.
Bảy Toài đã có vẻ ngấm rượu,
đã sắp quắt cần câu, vung tay vỗ cái bốp vào bàn mông to như cái thúng của vợ,
phát cười hề hề.
Thôi bà ui! Người ta tính mua
gấu về nuôi, trích lấy mật cho bà uống, đặng mà sanh thằng Đực, con Tím. Chứ ai
đời cứ điếc tịt như vầy, sau này, lấy ai mà canh chừng mấy chục héc ta rừng
trên núi. Bà dám gan lì không sanh, tui dám bỏ qua Thủy Đài Sơn à nghen!
Chị vợ giòn như cái bánh cam
của Bảy Toài, nguýt chồng đánh cóc một cái.
Dóc tổ ông ơi! Trên núi dưới
núi ông kham còn không xuể, ở đó đòi sanh tật. Chừng tui chịu thuốc, tui sanh
cho ông cả tiểu đoàn. Để rồi coi. Tới đó ông còn có nước đi tu, chứ chịu đời gì
thấu.
Bảy Toài tự thưởng cho mình
một ly đầy có ngọn. Không hiểu sao, đang khỏe như bò kéo, Bảy Toài chỉ gặc đầu
một cái, ngoẹo ngang xuống bàn ngủ ngon lành. Mấy anh kiểm lâm chắc cũng đã
thấm, lần lượt xin kiếu ra về. Còn lại bên cái bàn làm bằng cuộn dây điện gỗ
thông, có cái dù vải xanh vàng tím đỏ xòe ra che bên trên, trơ khấc tôi với Năm
Rựa.
Năm Rựa lắc đầu nói với tôi.
Thằng này nó cũng khổ lắm! Một
lúc đa đoan những hai bà. Có bà nào đẻ đái được gì đâu. Bà lớn hơn mười năm. Bà
nhỏ hơn hai năm. Điếc tịt cả ra. Tôi nghĩ nó cũng như cây trầm tóc trên núi. Có
ngậm trầm rồi thì cũng để cho ai hưởng, chứ thân nó thì xốp xộp ra.
Nhìn qua dáng ngủ ngồi gù gù
của Bảy Toài, tôi chợt thấy núi Dài hiện ra sừng sững ngay trước mặt. Ánh trăng
chan trên dãy núi lênh lang thành vạt. Gió từ miệt Hà Tiên thổi về, càng làm
cho ánh trăng như sáng lên óng ánh. Dãy núi dường như đang rung rinh lay động,
đang sắp trôi tuột xuống, hòa tan vào với đêm đồng bằng ngút ngát.
Con phèn không biết mò tới lúc nào, gác chân lên cái đùi phải hơi co lên cao của Bảy Toài, ngủ say sưa.
HỒ TĨNH TÂM
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét