Trưởng lão Giác Chánh là một trong những cao đồ của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang - người khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Trước khi vắng bóng, Đức Tôn sư đã phó chúc cho Tỳ-kheo Giác Chánh là người kế thừa trách nhiệm điều hành Tăng đoàn Khất Sĩ. Bởi thế về sau, hàng hậu bối tôn ngài là Đệ nhị Tổ sư. Đặc biệt, ngài là người miền Bắc, lại trở thành Tổ sư đời thứ hai của một tông phái Phật giáo đặc thù ra đời ở miền Nam, quả là nhân duyên hiếm có. Qua đó phần nào cho thấy, ngài ắt hẳn có những phẩm cách nổi bật và thành tựu vượt trội trong tu tập, mà người thầy đã nhận ra và tâm đắc. Quả thật, qua tìm hiểu về Đức Nhị tổ, chúng ta có thể nhận thấy ngài là không chỉ là người kế thừa xứng đáng giáo pháp Khất sĩ, mà còn là bậc thầy mô phạm cho đàn hậu tấn noi theo.
1. Cuộc đời và đạo nghiệp của Đức Nhị tổ
Đức Nhị tổ Giác
Chánh thế danh Bạch Văn Biện, sanh ngày 1 tháng 9 năm 1912, quê quán làng Mỗ
Lao, tổng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội (ngày nay là phường
Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội). Thân phụ là cụ ông Bạch Ngọc Lang,
thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Nhâm, ông bà đều là nông dân hiền lương và có niềm
tin Phật giáo. Ngài là con thứ bảy trong gia đình có tám anh chị em (năm trai,
ba gái). Do hoàn cảnh gia đình không khá giả, ngài nghỉ học sớm, ở nhà cùng anh
chị em phụ giúp việc ruộng rẫy với cha mẹ.
Bước sang tuổi
đôi mươi, ngài được cha mẹ sắp xếp việc gia thất. Tuy không dám cãi lời song
thân, nhưng ngài đã ấp ủ ý chí xuất trần, không mặn mà với chuyện vợ con. Sau
vài năm, có lẽ nhận ra được ý chí đó, người bạn đời xin cha mẹ chồng cho phép trở
về gia đình, để ngài được tự do theo tâm nguyện. Năm 1937, ngài từ giã gia đình
theo anh thứ ba là Bạch Văn Tô vào Sài Gòn làm công nhân, khi đó ngài 25 tuổi.
Năm 1946, ở
làng Phú Mỹ thuộc tỉnh Mỹ Tho (ngày nay là tỉnh Tiền Giang), Sư trưởng Minh
Đăng Quang khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam với tôn chỉ “Nối truyền Thích Ca
Chánh pháp”. Năm 1948, Ngài và các đệ tử bắt đầu hành đạo đến Sài Gòn và các tỉnh
lân cận, mang đến luồng gió mới cho tình hình Phật giáo lúc bấy giờ: “Ánh sáng
của lá y vàng phất phơ thổi mạnh làm bật tung cánh cửa các ngôi chùa tông giáo,
kêu gọi Tăng chúng tản cư khắp xứ, kéo nhau quay về kỷ luật” [Tổ sư Minh Đăng
Quang 2016: 732].
Giữa đô thành
xa hoa, những nhà sư Khất sĩ bỗng xuất hiện đầy khác biệt: Người đắp y vàng,
tay ôm bát đất, đầu trần, chân không, mỗi ngày đi khất thực hóa duyên, thuyết
giảng đạo pháp… Hình ảnh đó gieo vào lòng người sự chấn động và kính phục mà người
đương thời từng thuật lại: “Bấy giờ hợp thời duyên, Đoàn Du tăng Khất sĩ vào Đô
thành truyền giáo. Ai nhìn vào Đoàn Du tăng đều cảm phục và tiếng Pháp từ từ
lan tràn giữa cõi xa hoa, vật chất, tranh giành” [Huỳnh Minh 1967: 290].
Ở khu vực Phú
Lâm - Chợ Lớn, do cảm mến đức hạnh Tăng-già, người dân hiến đình Phú Lâm cho
chư Tăng, đổi thành Ngọc Lâm tự (về sau đã trả lại). Tại đây, chàng thanh niên
Bạch Văn Biện hay tin về Tăng đoàn Khất Sĩ đã tìm đến nghe pháp, học đạo, quy y
Tam Bảo. Năm 1949, tâm bồ-đề phát khởi, ngài quyết định từ bỏ đời sống thế tục,
xuống tóc xuất gia, tìm cầu con đường giải thoát, khi đó ngài 37 tuổi. Mùng 1
tháng 9 năm 1950, ngài thọ giới Sa-di. Rằm tháng 7 năm 1951, ngài thọ giới Tỳ-kheo.
[1]
Giai đoạn nầy, Giáo
hội Tăng-già Khất Sĩ tích cực hoằng pháp khắp hai miền Tây và Đông Nam Bộ, thâu
nhận hàng trăm đệ tử xuất gia, cảm hóa hàng vạn cư sĩ tại gia, xây cất trên 20
ngôi tịnh xá. Rằm tháng 7 năm 1953, nhân dịp lễ Tự tứ có sự tham dự của đông đủ
môn đồ, Sư trưởng phân công sư Giác Chánh làm Thượng tọa, có trách nhiệm điều
hành giáo hội. Cần nói rõ, đây là “chức danh” thể hiện sự ủy nhiệm công việc,
không phải “giáo phẩm” như cách sử dụng ngày nay (Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức).
Bởi, Phật giáo Khất Sĩ khi đó chỉ có một nhà sư duy nhứt ở vị trí Thượng tọa,
có thể hiểu là “người ngồi trên”, hàm ý chỉ bậc lãnh đạo giáo hội [Vĩnh Thông
2023: 53].
Cuối năm đó, Sư
trưởng bổ sung sư Giác Tánh làm Trưởng lão Chứng minh và sư Giác Như làm Tri sự.
Như dự tri vị lai, sau khi sắp xếp công việc giáo hội ổn định, mùng 1 tháng 2
năm Giáp Ngọ 1954, Ngài thọ nạn và vắng bóng. Từ đây, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ
được ngài Giác Chánh lãnh đạo, cùng với vai trò cố vấn của ngài Giác Tánh và
vai trò trợ lý của ngài Giác Như. Đáng lưu ý, khi đó Tỳ-kheo Giác Chánh mới ba
hạ lạp, nếu không có những yếu tố nổi trội trong con người và thành quả tu tập,
ắt không được giao phó trọng trách cao cả như thế. Điều trùng hợp đặc biệt
trong lịch sử Phật giáo nước nhà là 645 năm trước đó (1308), Sơ tổ Trúc Lâm (Trần
Nhân Tông) công bố truyền Tổ vị cho Nhị tổ Pháp Loa - khi đó cũng chỉ mới ba hạ
lạp!
Trước đó, Sư trưởng có hoài bão: “Cuộc đi du hành sau khi giác ngộ sẽ lan dần ra các xứ. Ban đầu đi quanh xứ Việt miền Nam, kế đó lần ra Trung, Bắc cùng khắp cõi Đông Dương nếu con đường thuận tiện” [Tổ sư Minh Đăng Quang 2016: 695]. Do vậy sau khi Ngài vắng bóng, Đoàn Du tăng Khất sĩ do Thượng tọa Giác Chánh dẫn đầu đã nối tiếp hoài bão đó, tinh tấn hành đạo ở nhiều nơi. Vào các năm 1956, 1957, 1958, 1961, chư Tôn đức đã tổ chức bốn chuyến hành đạo ra miền Trung [Thích Giác Duyên 2014: 48-49], đến địa phương xa nhứt lúc bấy giờ là Quảng Trị - nơi vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước. Từ đây, giáo pháp Khất Sĩ bước đầu được người dân miền Trung tiếp cận, một số nhà sư quyết định trụ lại hoằng pháp, về sau hình thành các giáo đoàn.
Khi Phật giáo
Khất Sĩ bắt đầu bén rễ ở miền Trung, Thượng tọa Giác Chánh trở về miền Nam và tập
trung hoằng pháp tại đây trong các thập niên 1960 - 1980. Ngài hướng dẫn chư Tăng
hành đạo qua nhiều tỉnh thành, thâu nhận đệ tử xuất gia, giáo hóa cư sĩ tại
gia. Đồng thời, Ngài chứng minh thành lập các tịnh xá như Ngọc Đồng (Định Tường,
1959), Ngọc Giang (An Giang, 1960), Ngọc Tường (Định Tường, 1961)… [2] Từ thập
niên 1980 về sau, do tuổi cao sức yếu, Trưởng lão Giác Chánh dừng bước chân du
hóa, ẩn dật tịnh tu ở các trú xứ. Trải qua hơn 30 năm là lãnh đạo tinh thần tối
cao của Phật giáo Khất Sĩ, do đó ngài được môn đồ tứ chúng đồng tôn xưng là Nhị
tổ.
Năm 2004, khi
an dưỡng tại tổ đình tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long), sức khỏe Đức Nhị tổ mỗi
ngày mỗi yếu dần. Thấu rõ lý vô thường, từ mùng 7 tháng 6 âm lịch, Ngài chủ động
nhịn ăn uống để lắng sạch thân tứ đại trong 10 ngày. Lúc 17 giờ 30 phút ngày 17
tháng 6 năm Giáp Thân (ngày 2 tháng 8 năm 2004), Ngài xả bỏ huyễn thân, an
nhiên thị tịch, trụ thế 93 năm, hạ lạp 52 năm. Tang lễ được tổ chức trọng thể
trong bốn ngày, có hàng ngàn Tăng Ni và cư sĩ từ các miền tịnh xá trong và
ngoài nước về viếng tang. Nhục thân ngài sau khi trà-tỳ lưu lại nhiều xá lợi, hiện
nay được tôn thờ tại tịnh xá Ngọc Viên.
2. Gương hạnh trong tu tập của Đức Nhị tổ
Không như Đức Tổ
sư Minh Đăng Quang để lại bộ tác phẩm Chơn
lý đồ sộ gồm 69 quyển, Đức Nhị tổ Giác Chánh không để lại tác phẩm nào. Tuy
vậy đối với hàng môn đồ, cuộc đời tu hành bình dị mà thanh cao của ngài là bài
pháp không lời. Từ ngày xuất gia, rồi nhận lãnh trách nhiệm đối với giáo hội, đến
ngày viên tịch, ngài luôn tinh tấn trong tu tập, nghiêm trì giới luật, đồng thời
tích cực hoằng pháp độ sanh. Đó là tấm gương sáng ngời lưu lại cho Tăng Ni và
cư sĩ Phật giáo Khất Sĩ.
Trong buổi đầu
xuất gia nhập đạo, Tỳ-kheo Giác Chánh luôn gần gũi Sư trưởng Minh Đăng Quang,
thọ học và hành trì những lời dạy của thầy. Ngài là mẫu mực cho hình ảnh nhà sư
Khất sĩ với ba y, một bát, đời sống thanh bần, Phạm hạnh thanh tịnh. Mặt khác,
ngài cũng nỗ lực dấn thân vào sự nghiệp hoằng truyền giáo pháp, tham gia Đoàn
Du tăng Khất sĩ đi hành đạo ở nhiều tỉnh thành tại Nam Bộ.
Đến khi Sư trưởng vắng bóng, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ như lâm vào cơn khủng hoảng sống còn. Không ít người phỏng đoán rằng, hội chúng nầy sẽ tan rã trong nay mai. Thế nhưng, điều đó không xảy ra. Trái lại, giáo hội vẫn tồn tại bền vững và phát triển mạnh mẽ. Người có công đầu trong gìn giữ giềng mối của dòng truyền thừa là Đức Nhị tổ [Thích Minh Thành 2023: 38-39]. Chẳng những vậy, ngài còn hướng dẫn Đoàn Du tăng đưa giáo pháp Khất Sĩ ra miền Trung, thực hiện hoài bão mà Đức Tổ sư từng ấp ủ nhưng chưa hoàn thành.
Thập niên 1960, nói về sự phát triển của nền Phật giáo Khất Sĩ, tác giả Huỳnh Minh [1967: 291-292] cho biết: Từ ngày vị giáo lãnh Minh Đăng Quang vắng bóng, đạo của Ngài càng ngày càng phát triển khắp nơi. Từ Cà Mau đến Bến Hải, từ đồng bằng đến rừng núi xa xôi hẻo lánh, đâu đâu cũng có tịnh xá mọc lên, bóng nhà sư áo vàng xuất hiện khắp vạn nẻo đường gieo duyên với tất cả mọi người. Tuy gặp lắm hoàn cảnh gay go và thử thách, nhưng các môn đệ không thối chí ngã lòng, quyết khêu ngọn đèn chơn lý bừng tỏ để sáng danh thầy tổ, cho đời thấy rằng chơn lý bao giờ cũng là chơn lý, không sức mạnh nào dập tắt được.
Trong vòng hai thập kỷ, nếu Đạo
Phật Khất Sĩ Việt Nam có trên 20 tịnh xá và hơn 100 Tăng Ni vào năm 1954, thì
hai con số tương ứng vào năm 1975 là khoảng 250 ngôi và 500 vị. Qua những con số
nêu trên, có thể nhận thấy toàn thể Tăng Ni hệ phái đã đồng tâm hiệp lực hoằng
truyền giáo pháp, kế tục xứng đáng sự nghiệp của Đức Tổ sư. Để có được những
thành tựu vẻ vang đó, chắc hẳn không thể thiếu vai trò lãnh đạo quan trọng của
Đức Nhị tổ.
Trong điều hành giáo hội, Đức Nhị tổ thực hành nguyên tắc “bình đẳng vô trị” của Đức Tổ sư. Dù giữ quyền chưởng quản, nhưng ngài không sử dụng quyền lực để trị phạt cá nhân nào, mà mọi sự việc được dựa vào giới luật để giải quyết. Đó cũng là nguyên tắc được Tăng đoàn Phật giáo đã áp dụng xuyên suốt hơn hai ngàn năm, mà Tôn giả Ānanda ngày xưa từng khẳng định: “Không phải các Tôn giả xử sự chúng tôi, chính Pháp xử sự chúng tôi” [Kinh Trung bộ 2012b: 333-334].
Trong đời sống tu tập cá
nhân, Đức Nhị tổ luôn giữ gìn thân - khẩu - ý thanh tịnh, thực
hành trang nghiêm giới luật Tỳ-kheo, đặc biệt là Tứ y pháp Trung đạo - nền tảng
về Pháp hành của Phật giáo Khất Sĩ. Ngài duy trì hạnh trì bình khất thực mỗi
ngày, từ lúc mới xuất gia đến khi tuổi cao sức yếu. Nơi ở của ngài trong thời
gian dài hành đạo ở Bạc Liêu là cốc nhỏ được cất sơ sài với vách ván, mái lá,
giữa khu vườn của người địa phương. Bộ y mà ngài đắp lên người được sử dụng nhiều
chục năm không thay đổi, rách tới đâu thì vá tới đó.
Hòa thượng Thích Trí Quảng
(hiện nay là Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam) từng ca ngợi đức hạnh nầy:
“Trong hiện đời, tôi đã gặp Thiền sư Giác Chánh cũng không nằm (ngài đã viên tịch),
không cần ngủ nghỉ. Nếu là người chưa biết tu, phải ngủ ở chỗ sang trọng, trong
khi Thiền sư Giác Chánh rất đặc biệt, không bao giờ ngài ở phòng ốc cao sang,
thường ở dưới gốc cây, hay ở trong túp lều lá” [Thích Trí Quảng 2008].
Ngài chuyên tu tập thiền định
ở nơi am cốc, dưới cội cây, trong vườn vắng… như lời Phật dạy: “Này các
Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những ngôi nhà trống. Này các Tỷ-kheo,
hãy thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau” [Kinh Tăng chi bộ 2015: 469]. Bởi thân tâm luôn tập trung cho giáo
pháp, không mảy may xao động việc thế gian, nên ngài luôn an nhiên, tự tại, nhẹ
nhàng.
Ngài cũng giữ hạnh ít nói, khi thuyết pháp thì ôn lại những lời dạy trong kinh điển, còn không thì im lặng. Bởi, Đức Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, khi các người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh” [Kinh Trung bộ 2012a: 212]. Đặc biệt, ngài có bộ nhớ tốt, thuộc nhiều quyển trong Chơn lý mà bản thân tâm đắc, thường trùng tuyên cho đại chúng trong những ngày cúng Hội tại các tịnh xá.
Trong giáo hóa
hàng hậu học, ngài luôn khích lệ Tăng Ni tinh tấn thực tập thiền định, giữ gìn
giới luật thanh tịnh, nhứt là oai nghi của người xuất gia. Nhiều Tỳ-kheo là đệ
tử trực tiếp hoặc ít nhiều gắn bó và nhận được sự hướng dẫn của ngài trong khoảng
thời gian nhứt định, về sau trở thành những thạch trụ của Tăng-già Khất Sĩ như
chư Hòa thượng Giác Nhiên, Giác Lý, Giác Nhu, Giác Huệ, Giác Đức, Giác Trang,
Giác Tường, Giác Nhường, Giác Giới, Giác Khang…
Có thể nói, Đức
Nhị tổ Giác Chánh tuy không phải đệ tử đầu tiên, nhưng lại là đệ tử ưu tú nhứt
của Đức Sơ tổ Minh Đăng Quang. Qua tìm hiểu về gương hạnh của ngài, chúng ta
không khó để hiểu vì sao ngài được trao truyền sứ mạng thiêng liêng là người
lãnh đạo Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ. Bởi lẽ, nếu Đức Tổ sư từng thuyết minh về
người Khất sĩ chuẩn mực, thì Đức Nhị tổ là hình mẫu tiêu biểu cho mô tả đó:
“Khất sĩ không
ta, không của ta, chẳng tự cao chia rẽ, cùng tự xưng mình dạy người hơn ai bằng
lời nói, hoặc chỗ ngồi cao, địa vị lớn. Khất sĩ thường lặng thinh và không
tranh luận, gọi mình là trò với tất cả. Khi có ai hỏi đến thì chỉ nói chỗ mà
mình đang tu hành chút ít thôi. Khất sĩ giữ giới thanh tịnh, tập cấm khẩu và tu
thiền định, không làm mích bụng người, gìn thiện cảm với tất cả. Khất sĩ không
tự gọi là dạy ai hết, và cũng không trị ai hết, vì tất cả chúng sanh là như
nhau có một” [Tổ sư Minh Đăng Quang 2016: 731].
3. Tịnh xá Giác Chánh - lưu dấu cho mai sau
Tăng đoàn Khất Sĩ có hai bộ
phận là Hành xứ và Trụ xứ. Các nhà sư Hành xứ đi giáo hóa khắp nơi, không ở đâu
quá ba tháng. Các nhà sư Trụ xứ là người già bịnh ở tịnh xá để nghỉ dưỡng, hoặc
tùy theo sự phân công của giáo hội mà ở lại tịnh xá để dạy đạo cho cư gia [Tổ
sư Minh Đăng Quang 2017: 52]. Theo chế định của Đức Tổ sư Minh Đăng
Quang, tịnh xá do cư gia hiến cúng cho giáo hội, giáo hội cử Tăng Ni về trụ xứ giáo
hóa, chứ không phải tài sản của cá nhân.
Với nguyên tắc
đó, có thể nói Đức Nhị
tổ Giác Chánh là hình mẫu tiêu biểu cho Tăng chúng Hành xứ. Ngài hướng dẫn Đoàn
Du tăng Khất sĩ luân phiên đi các nơi hoằng pháp, rày đây mai đó như hạc nội
mây ngàn, không cư ngụ cố định ở trú xứ nào. Bởi thế, tuy là Đệ nhị Tổ
sư của một hệ phái Phật giáo, nhưng ngài không có trú xứ riêng, cũng không lưu
lại di tích tưởng niệm sau khi viên tịch.
Để thể hiện sự
tri ân công hạnh của ngài, Giáo đoàn I - Hệ phái Khất Sĩ đã xây dựng tịnh xá
mang tôn danh Giác Chánh tại thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Đây là nơi lưu dấu Đức Nhị tổ và Tăng đoàn đã dấn thân hành đạo những năm xưa.
Tịnh xá được khởi công vào năm 2021, tổ chức lễ An vị Phật vào năm 2022, đến
nay các hạng mục đã cơ bản hoàn thiện.
Chánh điện có
hình bát giác theo truyền thống của hệ phái, nóc có ba tầng mái, lợp ngói đỏ, trên
đỉnh là đèn Chơn lý - biểu trưng của Phật giáo Khất Sĩ. Trong chánh điện có
tháp Pháp, thờ duy nhứt tượng Phật Thích Ca. Sau chánh điện là nhà Tổ, thờ di ảnh
Đức Sơ tổ Minh Đăng Quang và Đức Nhị tổ Giác Chánh. Xung quanh chánh điện có
các hạng mục phụ trợ như nhà khách, giảng đường, nhà thờ hương linh… hài hòa
trong tổng thể khuôn viên rộng lớn.
Tuy vậy, không
chỉ có cơ sở vật chất khang trang, hồn cốt ngôi đạo tràng nằm ở sự tu học và
hành trì của người con Phật. Thuở sanh tiền, Đức Nhị tổ luôn đề cao Pháp hành, ngày
nay nối tiếp tinh thần đó, tịnh xá Giác Chánh duy trì nghiêm cẩn chương trình
tu học theo quy tắc thiền môn như cúng Hội, đọc kinh, thuyết pháp, tham thiền…
Đồng thời, tịnh xá thường xuyên tổ chức các khóa tu dành cho cư sĩ tại gia như
khóa tu Một ngày an lạc, khóa tu Bát quan trai, khóa tu Thanh thiếu niên Phật tử…
Cuộc đời tu
hành của Trưởng lão Giác Chánh là tấm gương về nghiêm trì giới luật, tinh tấn
thực hành giáo pháp, dấn thân hoằng pháp độ sanh… nhưng làm tất cả mà chẳng hề
mảy may vướng bận. Tấm gương đó hoàn toàn xứng đáng để môn đồ tôn vinh là bậc Tổ
sư. Tuy vậy đối với bậc xuất trần thượng sĩ, mọi danh vị cũng chỉ là phù vân.
Ngoài ra, nhân duyên để người sáng lập tông phái Phật giáo đặc thù ở miền Nam lại
giao phó trọng trách kế thừa cho một nhà sư xuất thân từ miền Bắc, phải chăng
hàm ẩn thông điệp sâu sắc về tình pháp lữ - nghĩa đồng bào như sợi dây kết nối
tâm thức thiêng liêng?
Công hạnh cao quý của Đức Nhị tổ được hậu thế đúc kết qua câu đối ở nhà Tổ của ngôi tịnh xá mang tôn danh ngài:
“Giác hạnh bát y, Đệ nhị Tổ sư
tuyên lưu đường giải thoát
Chánh truyền Khất sĩ, minh quang Chơn lý nhuần rạng nẻo từ bi”
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 187, 2024)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. Ngày thọ giới Sa-di và Tỳ-kheo được ghi theo Chứng điệp, trước đây một
số bài viết đã nhầm lẫn thông tin nầy.
2. Tác giả ghi địa danh thực tế tương ứng với thời điểm đó, tỉnh Định Tường
ngày nay là tỉnh Tiền Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Huỳnh
Minh (1967), Vĩnh Long xưa và nay,
Nxb Cánh Bằng.
2. Kinh Tăng chi bộ (2015), Tập II, Thích Minh Châu dịch,
Nxb Tôn giáo.
3. Kinh Trung bộ (2012a), Tập I, Thích Minh Châu dịch,
Nxb Tôn giáo.
4. Kinh Trung bộ (2012b), Tập II, Thích Minh Châu dịch,
Nxb Tôn giáo.
5. Thích
Giác Duyên (2014), Hệ phái Khất Sĩ 70 năm
hình thành và phát triển, Nxb Tôn giáo.
6. Thích
Minh Thành (2023), “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam và bốn tinh thần tiêu biểu trước
khi hòa nhập vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 390.
7. Thích
Trí Quảng (2008), “Thực tập nhẫn nhục”, Báo
Giác ngộ điện tử (www.giacngo.vn), 11/12/2008.
8. Tổ
sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý,
Nxb Tổng hợp TPHCM.
9. Tổ
sư Minh Đăng Quang (2017), Chơn lý - Luật
nghi Khất Sĩ, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
10. Vĩnh
Thông (2023), “Quá trình truyền bá Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 414.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét