Minh Mạng (1791 - 1841) là hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn, cai trị từ năm 1820 đến năm 1841. Đồng thời, ông là nhà vua có nhiều thành tựu trong lịch sử triều đại nầy, bởi đã đưa đất nước trở nên hùng mạnh trong khu vực bằng nhiều cải cách quan trọng. Dĩ nhiên bên cạnh những hiệu quả, có một số chủ trương chưa thật sự hợp lý, do sự hạn chế nhứt định của thời đại và con người. Để góp thêm những góc nhìn về vua Minh Mạng, bài viết nầy điểm qua một số đóng góp lớn của ông đối với sự phát triển của đất nước thời bấy giờ.
Trước hết, về phong cách cá nhân, Minh
Mạng được ghi nhận là người làm việc nghiêm túc. Đại Nam thực lục chép lời vua: “Trẫm thấy thân nhỏ bé, nối nghiệp lớn
lao thường nơm nớp sợ gánh nặng được phó thác, vẫn cùng các đại thần huân cựu,
dậy sớm, ăn muộn, sửa sang chính trị” [Quốc sử quán triều Nguyễn 2007a: 75-76]. Sau khi lên ngôi, ông đã ấp ủ
những dự định cải cách đất nước trên nhiều mặt và thực hiện chúng trong 21 năm
tại vị, từ chánh trị, quân sự, đến giáo dục, kinh tế…
Về chánh trị,
cải cách đơn vị trấn thành tỉnh của Minh Mạng (1832) có ý nghĩa to lớn.
Sau hàng trăm năm đất nước bị chia cắt, bước sang thời Tây Sơn vẫn chưa có sự
thống nhứt trọn vẹn. Dưới triều vua Gia Long, cả nước có 27 trấn, nhưng sự phân
chia ấy mang tính chất tạm thời của buổi đầu tiếp quản. Vua Minh Mạng chia cả
nước thành 31 tỉnh, đặt ra các chức quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát,
Lãnh binh. Đặc biệt, dân sự hóa bộ máy hành chánh, dùng quan văn để quản lý,
thay thế cho các võ tướng như những thời kỳ trước. Đây là lần đầu tiên lãnh thổ
Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam thống nhứt cả việc phân chia địa giới lẫn đặt
định quan chức cai quản. Năm 1839, ông đổi quốc hiệu thành Đại Nam.
Minh Mạng là vua đầu tiên có chánh
sách quản lý các văn bản triều đình một cách chặt chẽ. Lúc lên ngôi, ông lập ra
Văn thư phòng, sau đổi thành Nội các, có nhiệm vụ xử lý và lưu trữ
các văn bản của vua và triều đình. Dưới triều vua Minh Mạng, lần đầu tiên Việt
Nam có trung tâm lưu trữ quốc gia, được gọi là Tàng thư lâu (1825). Nhờ vậy, nền văn khố triều Nguyễn tồn tại đến
nay, trở thành nguồn tư liệu quan trọng cho nghiên cứu lịch sử. Nhìn chung, những cải cách về chánh trị của vua Minh Mạng
mang lại những hiệu quả thiết thực. Cùng với cải cách của vua Lê Thánh Tông, cải
cách của vua Minh Mạng được đánh giá là hai cải cách có quy mô toàn quốc và hiệu
quả cao trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam [Phan Huy Lê 2008: 9]
Về quân sự, vua
Minh Mạng chủ trương xây dựng lực lượng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hùng mạnh.
Từ khi lên ngôi, ông đã tổ chức lại quân đội gồm năm bộ phận là bộ binh, thuỷ
binh, kỵ binh, tượng binh và pháo thủ binh. Trong đó, bộ binh là lực lượng chủ
chốt, được chia thành hai bộ phận là kinh binh và cơ binh. Kinh binh là lính
triều đình, đóng ở kinh thành và một số tỉnh trọng yếu. Cơ binh là lính địa
phương. Bên cạnh đó, ông tăng cường trang bị súng ống, đạn dược, thuyền bè, voi
ngựa… cho quân đội. Ngoài ra, những điểm xung yếu ven biển như Thuận An, Tư
Dung được xây dựng pháo đài, lợi dụng địa thế hiểm trở của tự nhiên để củng cố
phòng vệ cho đất nước [Quốc sử quán triều Nguyễn 2007a: 758]. Tuy vậy, quân đội
triều Nguyễn khi ấy còn khá lạc hậu so với thế giới.
Về kinh tế,
vua Minh Mạng khuyến khích việc khai hoang. Triều đình cho tù phạm đi khai thác
đồn điền ở những vùng đất hoang vu như Nam Kỳ, nhằm vừa cải tạo họ để hoàn
lương, vừa từng bước “dân sự hóa” đồn điền để chuyển thành thôn ấp cho dân
chúng sản xuất và định cư lâu dài. Quả thật đối với một số tù nhân, án phạt đó
cho họ cơ hội bắt đầu cuộc sống mới như người dân bình thường [Choi Byung Wook
2011: 114].
Ngoài ra, để quản lý và phát triển
kinh tế, vua Minh Mạng còn ban hành những chánh sách về ngạch thuế, thủy lợi,
đê điều, địa bạ… Ông có ý tưởng áp dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, một số loại máy móc được chế tạo như máy xẻ gỗ bằng sức
nước, máy hút nước tưới ruộng, xe dùng sức nước nghiền thuốc súng,
tàu máy hơi nước… Đáng tiếc là, những cải tiến ấy chỉ mới là bước khởi đầu,
chưa mang lại hiệu quả cao, đến các triều vua tiếp theo lại không được coi trọng.
Về giáo dục, lãnh vực nầy được Minh Mạng đặc biệt quan tâm đầu tư. Với chủ trương “Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài”, ông thành lập Quốc tử giám (1821), mở khoa thi Hội và thi Đình đầu tiên của triều
Nguyễn (1822), mở Tứ dịch quán để giảng
dạy ngoại ngữ (1836). Vua cũng nhận ra những hạn chế của khoa cử hiện hành và
manh nha tư duy cải cách giáo dục: “Lâu
nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ
nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo, khoe khoang lẫn với
nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tràng lấy
hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một
kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”
[Trần Trọng Kim 1968: 435].
Tuy nhiên, khi đó giáo dục vẫn chưa có cuộc cải tổ lớn.
Vua Minh Mạng vốn coi trọng sách vở. Khi
lên ngôi, vua mở ra Quốc sử quán để biên
soạn sách sử địa, đồng thời có chế độ ban thưởng cho những người sưu tầm hoặc
biên soạn sách. Vua căn dặn quần thần cần quan
tâm đọc sách để mở mang kiến thức: “Đạo trị nước chép ở sách vở, không xem rộng
xét kỹ không thể biết hết được. Nay thư viện Thanh Hoà chứa nhiều sách lạ bốn
phương, bọn khanh lúc rỗi việc mà có chí đọc sách thì mượn mà xem” [Quốc sử
quán triều Nguyễn 2007a: 40]. Hầu hết
những bộ sử địa đồ sộ - niềm tự hào của nền văn hiến dân tộc đã ra đời từ đây.
Về văn hóa,
Minh Mạng lưu tâm chấn chỉnh những biểu hiện suy đồi của xã hội. Ông đặt ra Mười điều Huấn dụ bao gồm coi trọng luân
thường, giữ tâm ngay thẳng, chăm lo nghề nghiệp, đề cao tiết kiệm, giữ gìn
phong tục, dạy bảo con em, chuộng học đạo chánh, răn cấm tà dâm, tuân thủ pháp
luật, mở rộng hạnh lành. Năm 1836, vua xuống
chiếu trách cứ các quan địa phương không khuyên bảo dân chúng và nhắc nhở hễ thấy
ai biếng nhác rong chơi, cờ bạc rượu chè thì phải cấm. Những kẻ cường hào ỷ thế
hống hách, chống đối với quan trên, dọa nạt kẻ bình dân thì trừng trị theo luật
pháp [Trần Trọng Kim 1968: 437].
Dưới triều vua
Minh Mạng, nghệ thuật cung đình phát triển rực rỡ. Nhà hát tuồng quốc gia đầu
tiên của Việt Nam được thành lập vào năm 1826 với tên gọi là Duyệt thị đường. Tiếp đến, Kinh thành Huế được xây dựng hoàn tất
vào năm 1832. Hai công trình đó đã làm nên niềm tự hào cho văn hóa dân tộc ngày
nay với hai Di sản Văn hóa Thế giới được UNESCO vinh danh là Quần thể di tích cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế.
Về chủ quyền biển đảo, đây là đóng góp quan trọng hàng đầu của vua Minh Mạng. Triều định thường
xuyên cử các đội thuyền ra Hoàng Sa và Trường Sa để vẽ địa đồ, trồng cây, dựng
bia, lập miếu… chúng là bằng chứng hùng hồn khẳng định chủ quyền của nước Đại
Nam đối với hai quần đảo rộng lớn nầy. Đại Nam thực lục cho biết vào năm 1833, vua chỉ dụ: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một giải Hoàng Sa,
xa trông trời nước một màu, không phân
biệt được nông hay
sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị hại! Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời” [Quốc sử
quán triều Nguyễn 2007b: 743].
Vua Minh Mạng chú trọng xây dựng lực
lượng thủy binh. Ông nhận định: “Nước nhà ở về phương Nam, đất nhiều phần biển,
thuỷ quân rất là quan trọng. Chính nên huấn luyện khiến cho thông thuộc biết rõ
đường biển thì lúc có việc mới mong đắc lực” [Quốc sử quán triều Nguyễn 2007c:
708]. Vua còn chủ trương học tập kỹ thuật tác chiến trên biển của Anh và Mỹ:
“Trong các nước phương Tây, có nước Xích Mao và Ma Ly Căn giỏi thủy chiến, tàu
của họ hoặc thuận chiều gió hoặc ngược chiều gió đều rất nhanh nhẹn… thật đáng
để học tập” [Vu Hướng Đông 2013: 308].
Mặt khác, vua Minh Mạng
đã sớm có những hoạt động cứu trợ nhân đạo trên biển, phần nào khẳng định trách
nhiệm của nước Đại Nam đối với vùng biển mà mình quản lý. Quốc triều chánh biên toát yếu ghi chuyện vào năm 1836: “Tàu buôn
nước Anh Cát Lợi qua bãi Hoàng Sa, bị cạn, ghé vào bãi biển Bình Định hơn 90
người. Việc ấy tâu lên, ngài sai lựa nơi cho ở và hậu cấp tiền gạo; người chủ
tàu và mấy người đầu mục ngó bộ cám ơn lắm” [Quốc sử quán triều Nguyễn 1972: 208].
Cửu Đỉnh trước Thế
Miếu được xem như báu vật tượng trưng cho sự trường tồn của triều đại, trên đó
chạm hình ảnh các danh thắng trong cả nước. Vua Minh Mạng đã tinh tế chạm cả ba
vùng biển chủ quyền của đất nước là biển Đông trên Cao Đỉnh, biển Nam trên Nhân
Đỉnh và biển Tây trên Chương Đỉnh. Ngoài ra, các cửa biển trọng yếu như Đà Nẵng,
Thuận An, Cần Giờ… cũng được thể hiện trên Cửu Đỉnh. Rõ ràng, ý thức về chủ quyền
biển đảo của vua Minh Mạng là rất nhứt quán.
Dĩ nhiên bên cạnh những
đóng góp, vua Minh Mạng không tránh khỏi một số hạn chế như cai trị chuyên quyền,
hạn chế giao thương với ngoại quốc, bức hại công thần… Bởi thế, trong giai đoạn
ông trị vì, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Tuy nhiên, như sử gia Trần Trọng
Kim [1968: 427] nhận định: “Vua Thánh Tổ làm một ông vua chuyên chế, tất thế
nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì
thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong lo sửa sang mọi việc làm thành ra chỉnh
tề, ngoài đánh Tiêm dẹp Lào làm cho nước không đến nỗi kém hèn.”
Nhìn chung, Minh Mạng
là nhà chánh trị tài năng, có tầm nhìn chiến lược, thực hiện nhiều cải cách
quan trọng cho đất nước lúc bấy giờ và đem lại những hiệu quả tích cực. Dưới thời
ông, Đại Nam có lãnh thổ rộng, kinh tế và quân đội mạnh trong khu vực, văn hóa
phát triển cao, giáo dục được củng cố. Đặc biệt, ông có những quyết sách có giá
trị liên quan đến chủ quyền biển đảo.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Thế giới trong ta, số 499, 2019 & in
trong sách Phong vị Nam Hà, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2024)
_______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Choi
Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới
triều Minh Mạng, Nxb Thế giới.
2. Phan
Huy Lê (2008), “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XX”, Tạp chí Xưa &
nay, số 317.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm Nghiên cứu Sử địa Việt Nam.
4. Quốc
sử quán triều Nguyễn (2007a), Đại Nam thực
lục, Tập 2, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục.
5. Quốc
sử quán triều Nguyễn (2007b), Đại Nam thực
lục, Tập 3, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục.
6.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2007c), Đại Nam thực lục, Tập 4, Viện Sử học dịch,
Nxb Giáo dục.
7. Trần
Trọng Kim (1968), Việt Nam sử lược, Nxb
Tân Việt.
8. Vu
Hướng Đông (2013), “Ý thức về biển của vua Minh Mệnh”, trong Nhiều tác giả, Triều Nguyễn và lịch sử của
chúng ta, Nxb Thế giới.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét