Tây Nguyên được xem là khu vực giàu tiềm năng dành cho sáng tạo. Kho tàng văn học nghệ thuật Tây Nguyên hết sức đa dạng với nhiều loại hình độc đáo, trong đó có mỹ thuật. Nền mỹ thuật bản địa tiền thực dân là vốn quý của đồng bào nơi đây, đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Khi tiến trình giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, không chỉ các tộc người Tây Nguyên mà cả các tộc người đồng bằng đã tham gia sáng tác về đại ngàn, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm mang đậm màu sắc núi rừng.
Mỹ thuật truyền thống vùng
Tây Nguyên
Mỹ thuật Tây Nguyên truyền
thống nổi bật ở kiến trúc và điêu khắc với những sắc thái đặc thù. Các giá trị ấy
được thể hiện qua xây dựng và trang trí những ngôi nhà rông ở Bắc Tây Nguyên,
những ngôi nhà sàn dài ở Trung và Nam Tây Nguyên, những hoa văn trang trí trên
trang phục và đồ dùng… [1] Trong đó, mỗi tộc người lại có những phong cách khác
nhau, thể hiện đặc trưng văn hóa của mình.
Ngoài nhà ở, người Tây Nguyên
thể hiện tài năng sáng tạo trong kiến trúc và trang trí nhà mồ. Ở Tây Nguyên, nếu những công trình lớn thường được thiết
kế sao cho kiểu dáng nhẹ nhàng thanh thoát, thì các công trình nhỏ lại có dáng
dấp hoành tráng đồ sộ, những ngôi nhà mồ chính là dạng công trình như thế, mang
tầm khái quát cao. [2] Nhà mồ thường do tập thể chung tay xây dựng,
trong đó những người cao tuổi phụ trách khâu mỹ thuật. Khi đo đạc làm nhà mồ, người ta không dùng thước mà dùng những đơn vị cơ
thể người như một sải tay, một cánh tay, một bàn tay… Điều nầy thể hiện quan niệm
đề cao vẻ đẹp con người và xem tầm vóc con người là chuẩn mực, đó là nét độc
đáo trong mỹ thuật dân gian Tây Nguyên.
Bên cạnh kiến
trúc, người Tây Nguyên còn nổi tiếng với nghệ thuật điêu khắc truyền thống. Tượng
nhà mồ là loại hình điêu khắc đặc trưng của của họ. Tượng nhà mồ có thể được
chia làm bốn loại: tượng thương tiếc (hình nhân ngồi bó gối, hai tay chống cằm),
tượng phồn thực - tái sanh (nam phô dương vật, nam nữ giao hợp, nữ mang thai, mẹ
bồng con), tượng bảo vệ (chim công), tượng sinh hoạt (con người, vật dụng). [3]
Họ cho rằng các bức tượng đều có linh hồn, hiện thân của ma quỷ, nên chỉ dành
cho việc trang trí nhà mồ.
Những bức
tượng nhà mồ được đẽo từ thân cây, kích thước lớn nhỏ khác nhau, đa dạng về kiểu
loại. Khi đẽo, họ chủ yếu sử dụng các công cụ thô sơ
như rìu, đục… Nội dung các bức tượng hướng đến cuộc sống thực tế hằng ngày
như lao động sản xuất hay sinh hoạt cộng đồng. Đó là những người phụ nữ giã gạo
hay dệt vải, cánh đàn ông vào rừng săn bắn hoặc đi rẫy, không khí lễ hội rộng
ràng của buôn làng với những khuôn mặt tươi vui khi biểu diễn nhạc cụ, nhảy
múa, uống rượu cần… Về sau, họ còn kết hợp các chi tiết từ cuộc
sống hiện đại vào nội dung bức tượng.
Về mặt thẩm
mỹ, các tượng nhà mồ được chế tác đơn giản, thô sơ, mang tính khái quát cao. “Các
nghệ nhân tạc tượng theo cảm nhận và sự sáng tạo của riêng mình, không bị ràng
buộc bởi khuôn mẫu. Sự cộng hưởng giữa sáng tạo cá nhân dựa trên chiều sâu văn
hóa nơi đây đã tạo nên những bức tượng độc đáo, không trùng lặp và mang đậm dấu
ấn riêng của người nghệ nhân.” [4] Dù đây là sản phẩm dành cho thế
giới bên kia, nhưng nó vẫn thể hiện cảm hứng sáng tạo cá nhân của người chế
tác.
Mỹ thuật hiện đại vùng Tây
Nguyên
Những
năm đầu sau chiến tranh, hội họa Tây Nguyên phần lớn là tranh cổ động. Bởi khi
đó, Việt Nam còn nhiều khó khăn về kinh tế, riêng Tây Nguyên lại gặp phải mối
đe dọa về an ninh từ tổ chức Fulro. Người nghệ sĩ không thể thực hiện ước mơ
sáng tạo của riêng mình, mà phải sáng tác phục vụ nhu cầu tuyên truyền của
ngành văn hóa. Nội dung chủ yếu trong các tranh cổ động là kêu gọi người dân
chăm lo sản xuất, tin tưởng vào chế độ mới, không tham gia tổ chức Fulro… Dẫu vậy,
số người vẽ tranh cổ động khi đó vẫn còn ít ỏi trên vùng đất nầy.
Thập
niên 1980, Tây Nguyên đón nhận những lớp cư dân
từ khắp mọi miền đất nước tìm đến theo phong trào kinh tế mới, một lực lượng
tác giả đáng kể đã bổ sung cho hoạt động hội họa trên nơi đây. Mặt khác, đời
sống sau chiến tranh dần ổn định, các họa sĩ từ nhiều nơi có cơ hội thuận tiện
hơn để đi thực tế sáng tác ở Tây Nguyên và đóng góp nhiều tác phẩm mới cho vùng
đất nầy.
Chất liệu được sử dụng trong giai đoạn nầy chủ yếu là bột màu
và màu nước. Họa sĩ Xu Man chưa nguôi ngoai ký ức về chiến tranh, cho ra đời bức
sơn dầu Phá ấp chiến lược.
Song, bên cạnh những ký ức đau thương vẫn có những hình ảnh mang tính lãng mạn,
chẳng hạn tác phẩm khắc gỗ Bộ đội qua làng và tác phẩm sơn
mài Giã gạo trên sóc Bom Bo của họa
sĩ Quách Phong. Họa sĩ Huỳnh Văn Thuận với tác phẩm sơn khắc Rê thóc thể
hiện không khí hối hả của ngày mùa. [5]
Thập niên 1990, hội họa Tây Nguyên có
những bước khởi sắc. Sau khi Việt Nam đổi mới và
mở cửa, đặc biệt là sự kiện gia nhập ASEAN và mở rộng giao lưu với các nước
phương Tây, nhiều cánh cửa mới đã mở ra cho mỹ thuật Tây Nguyên. Từ đây, các
họa sĩ bước đầu hoà nhập vào đời sống mỹ thuật khu vực và quốc tế.
Từ
sau những năm 2000, văn học nghệ thuật Tây Nguyên nói chung và mỹ thuật nói
riêng có những đột phá đáng kể. Sự phát triển cả số lượng lẫn chất lượng trở
thành tín hiệu đáng mừng cho mỹ thuật Tây Nguyên. Các
Hội Văn học Nghệ thuật cấp tỉnh từng bước đi vào hoạt động ổn định, tạo điều
kiện cho các nghệ sĩ có môi trường sinh hoạt và sáng tác. Hoạt động nổi bật của
các Hội Văn học Nghệ thuật nhằm thúc đẩy phát triển mỹ thuật Tây Nguyên là tổ
chức các chuyến thực tế, trại sáng tác, lớp bồi dưỡng, cuộc thi, liên hoan,
triển lãm, đầu tư kinh phí… Điều đặc biệt là sự xuất hiện của thế hệ họa
sĩ trẻ được đào tạo bài bản qua trường lớp. Trường Nghiệp vụ Văn hóa Thông tin
thành lập năm 1977, sau đó nâng lên Trung cấp và đến năm 2005 trở thành Trường
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đắk Lắk là một trong những cái nôi đào tạo các nghệ
sĩ trẻ ở khu vực Tây Nguyên.
Những
cây cọ trẻ nổi bật trong làng nghệ thuật tạo hình Tây Nguyên hiện nay được biết
đến như Lê Nguyễn Thảo My, Mai Quý Ngọc, Siu Quý, Trần Y Anh Tuấn, Trần Hồng
Lâm, Lê Vi Thủy… “Dẫu cho mải mê với việc kiếm sống ở Tây
Nguyên hay nơi nào khác, nhưng tác phẩm của các nghệ sĩ nầy đã đem lại cho
chúng ta niềm hy vọng về một thế hệ trẻ đang định hình và sẵn sàng hội nhập
nhưng vẫn không đánh mất chính mình, trong các lãnh vực hội họa, truyền hình và
nhiếp ảnh được coi là rất khó bồi dưỡng và đào tạo…” [6] Dù thời gian phát
triển mỹ thuật hiện đại trên vùng đất Tây Nguyên còn ngắn ngủi, các thế hệ họa
sĩ trưởng thành sau chiến tranh có tuổi đời khá trẻ, nhưng họ không ngừng sáng
tạo, công bố tác phẩm thường xuyên và đoạt nhiều giải thưởng uy tín.
Vai trò của mỹ thuật trong đời
sống người Tây Nguyên
* Đáp ứng nhu cầu tâm linh: Mỹ
thuật truyền thống của Tây Nguyên chủ yếu thể hiện qua nhà sàn, nhà mồ và tượng
nhà mồ, do đó phần lớn có liên quan đến văn hóa tín ngưỡng. Những sản phẩm nghệ
thuật tạo hình đáp ứng nhu cầu tâm linh mà người dân muốn gửi gắm đến thế giới
thiêng. Qua những hình thức đó, người Tây Nguyên cảm thấy an tâm vì đã làm tròn
trách nhiệm của mình với thế giới bên kia.
* Giáo dục đạo lý và thẩm mỹ: Nội
dung trang trí trên nhà sàn, nhà mồ và nội dung chạm khắc ở các tượng gỗ thường
hướng con người đến cái tốt, cái đẹp. Các nghệ nhân không chỉ đưa cảm quan nghệ
thuật của mình vào tác phẩm, mà còn lồng ghép vào đó những tri thức và kinh
nghiệm của bản thân hoặc cộng đồng. Hệ thống các giá trị được truyền tải qua mỹ
thuật đã phần nào định hướng đạo lý sống và quan điểm thẩm mỹ cho cộng đồng.
* Sáng tạo và bảo tồn văn hóa:
Mỹ thuật làm phong phú thêm đời sống của cư dân Tây Nguyên. Cộng đồng vừa sáng
tạo những giá trị văn hóa ấy, vừa thụ hưởng những thành quả được sáng tạo. Mỹ
thuật Tây Nguyên còn thể hiện tính năng động của cư dân nơi đây, khi đã thổi
vào các tác phẩm những luồng gió mới, để chúng bắt nhịp theo kịp thời đại. Song
song với quá trình sáng tạo văn hóa, mỹ thuật cũng là một trong những phương
tiện bảo tồn văn hóa tộc người.
Sự biến đổi của mỹ thuật trong quan hệ với các thành tố văn hóa
Theo sự phát triển của cuộc sống
hiện đại, văn hóa Tây Nguyên nói chung và mỹ thuật nói riêng có nhiều biến đổi.
Sự biến đổi của mỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với sự biến đổi của các thành
tố khác trong hệ thống văn hóa vùng Tây Nguyên. Chẳng hạn, các đại gia đình đã
dần không còn, do đó kiến trúc và trang trí nhà sàn truyền thống của Tây Nguyên
đứng trước nguy cơ thất truyền. Đối với nhà mồ, một mặt các nhà mồ đã xuất hiện
nhiều chi tiết lấy từ cuộc sống hiện đại, mặt khác do lễ bỏ mả đã dần mai một
nên các tượng nhà mồ không còn được tạo ra nhiều như trước.
Với nền mỹ thuật hiện đại, các họa
sĩ vừa chọn lọc tiếp thu những thành tựu của mỹ thuật quốc tế, vừa chú trọng đề
cao những giá trị đặc thù của văn hóa bản địa. Các tác phẩm về Tây Nguyên dù có cách tân theo những trào lưu mỹ thuật
đương đại, nhưng vẫn không thoát ly khỏi đời sống hiện thực của đồng bào Tây
Nguyên. Điều đó khiến chúng không “lạc hậu” so với mỹ thuật khu vực và quốc tế,
nhưng cũng không mất đi “chất Tây Nguyên” mà tác giả muốn gởi gắm.
Tây Nguyên bước vào giai đoạn phát
triển với nhiều bước chuyển mình, các họa sĩ có nhiều điều kiện hơn để trải
nghiệm thực tế, hòa mình với vùng đất và con người nơi đây, từ đó cho ra đời
nhiều tác phẩm có giá trị. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội đã thay đổi, kéo theo
những nội dung được phản ánh trong tác phẩm cũng thay đổi. Tác phẩm về Tây
Nguyên giờ đây không chỉ có những đề tài truyền thống như núi rừng, lễ hội,
ngày mùa… mà còn có sự xuất hiện của các đề tài hiện đại như đô thị, công
nghiệp, y tế, giáo dục, môi trường…
Nhìn chung, gần nửa thế kỷ trôi
qua, mỹ thuật Tây Nguyên từng bước thay đổi, với sự ra đời của nhiều tác phẩm
có giá trị cao, gắn liền với những tác giả có tên tuổi, đặc biệt là giới họa sĩ
trẻ. “Mỗi người một phong cách sáng tạo nghệ thuật nhưng đều có chung một niềm
đam mê với những tác phẩm hội họa mang đậm nét văn hóa Tây Nguyên.” [7]
Kết luận và kiến nghị
Mỹ thuật Tây Nguyên từ truyền thống đến hiện đại đã trải qua
nhiều biến đổi và có những thành tựu nổi bật. Qua từng giai đoạn phát triển
khác nhau với những thăng trầm, không ít thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội,
cộng đồng bản địa và những nghệ sĩ chuyên nghiệp đã cùng nhau vun bồi cho một
nền mỹ thuật độc đáo trên vùng đất cao nguyên.
Ngày nay, thế mạnh của Tây Nguyên trong lãnh vực mỹ thuật có
lẽ chính là nguồn cảm hứng. Thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người có nền văn
hóa đặc sắc, đó là hai yếu tố nổi bật mang đến nguồn cảm hứng cho những họa sĩ.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến sự năng động của chính các tác giả, mang
lại sự đa dạng cho mỹ thuật Tây Nguyên.
Dù vậy, so với các vùng khác, mỹ thuật hiện đại của Tây
Nguyên phát triển chưa lâu và đội ngũ sáng tác còn ít. Điều nầy đòi hỏi những
người làm công tác quản lý văn hóa cần chú trọng đầu tư hơn nữa để phát triển
mỹ thuật Tây Nguyên, đặc biệt là đội ngũ kế thừa. Vai trò của các trường đại
học và cao đẳng, các Hội Văn học Nghệ thuật, các Trung tâm Văn hóa… rất quan
trọng trong công tác nầy. Trong thời gian tới, mỹ thuật Tây Nguyên cần quan tâm
hai vấn đề:
- Bảo tồn mỹ thuật
truyền thống song hành với phát triển mỹ thuật hiện đại: Đào tạo và bồi
dưỡng cho đội ngũ nghệ nhân dân gian và các họa sĩ trẻ một cách bài bản và
chuyên nghiệp, không chỉ dừng lại ở những hoạt động mang tính phong trào,
nghiệp dư, quần chúng…
- Tạo điều kiện hỗ trợ
tác giả sáng tác và quảng bá tác phẩm: Tăng cường các trại sáng tác, chuyến
thực tế, giao lưu trao đổi kinh nghiệm, cuộc thi, liên hoan, triển lãm… để mỹ
thuật Tây Nguyên tiếp cận sâu hơn với quần chúng và giúp tác giả cọ xát để
trưởng thành.
Chặng đường phát triển của mỹ thuật Tây Nguyên còn dài, đặc
biệt trong bối cảnh công nghệ - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, vừa tác động đến
phương thức sáng tác (nhiều loại hình mới ra đời), vừa tác động đến nguồn cảm
hứng (sự thay đổi của xã hội). Với những tiềm năng sẵn có, nếu có thêm những
điều kiện hỗ trợ thích hợp, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng mỹ thuật
Tây Nguyên sẽ vươn xa.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Thời báo Văn học Nghệ thuật, số 18 (41),
2021)
______________________
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
1 & 3. Lý Tùng Hiếu (2017), Trường Sơn - Tây Nguyên tiếp cận văn hóa học, Nxb Tri thức, tr. 365-366.
2. Mai Lan (2010), “Nét đẹp trong kiến trúc nhà mồ Tây Nguyên”, Tạp chí Quê hương điện tử (www.quehuongonline.vn), 11/6/2010.
4. Lê Minh, Công Đạt, Khánh Long (2017), “Tượng gỗ Tây Nguyên: Những pho sử thi bước ra từ đại ngàn”, Báo Ảnh Việt Nam (www.vietnam.vnanet.vn), 5/5/2017.
5. Nguyễn Viết Tân (2016), “Hội họa Tây Nguyên những năm đầu giải phóng”, Website Hội Mỹ thuật Việt Nam (www.vietnamfineart.com.vn), 12/4/2016.
6. H’Linh Nga Niê Kdăm (2012), “Văn hóa nghệ thuật các dân tộc Tây Nguyên: Những băn khoăn, trăn trở”, Báo Đăk Lăk điện tử (www.baodaklak.vn), 6/9/2012.
7. Kim Châu & Xuân Huy (2016), “Tây Nguyên qua góc nhìn của các họa sỹ trẻ”, Website Đài PTTH Gia Lai (www.gialaitv.vn), 19/1/2016.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét