Thiền là phương pháp tu tập cốt tủy của đạo Phật. Trải qua hàng ngàn năm, thiền Phật giáo đã lan tỏa khắp thế giới. Đến mỗi nơi, pháp tu thiền ít nhiều biến đổi, tùy theo bối cảnh văn hóa, trình độ của quần chúng, sự chứng ngộ của mỗi thiền sư… Điều đó mang đến tính phong phú cho các khuynh hướng tiếp cận và thực hành thiền. Gác qua những khác biệt ít ỏi, mục đích tối hậu của thiền Phật giáo nói chung không nằm ngoài việc mang đến cho hành giả sự thấy biết đúng đắn về bản chất của thực tại. Bởi thế, nghiên cứu các dòng thiền với những tương đồng và dị biệt sẽ cho thấy sự linh hoạt của mỗi thiền sư, mỗi nền văn hóa, mỗi thời đại và tính chất “thống nhứt trong đa dạng” của thiền Phật giáo.
Ở Việt Nam
giữa thế kỷ XX, Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam đã hình thành và phát triển mạnh mẽ
sau đó. Đức Tổ sư Minh Đăng Quang - nhà sáng lập hệ phái cũng áp dụng pháp môn
thiền, tuy có một số khác biệt so với các truyền thống khác. Nghiên cứu thiền
trong Phật giáo Khất sĩ qua cái nhìn đối chiếu - đặc biệt với thiền Nguyên thủy
giúp chúng ta nhận thấy sự kiên định kế thừa và uyển chuyển canh tân của Đức Tôn
sư khai sơn hệ phái, cũng như những nét đặc sắc và đóng góp của Ngài cho thiền
học.
1. Thiền là pháp môn tu tập của Phật giáo
Khất Sĩ
Đạo Phật Khất
Sĩ Việt Nam là trường phái Phật giáo biệt truyền do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang
khai sáng vào năm 1946 tại tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Đức Tổ sư sanh
năm 1923, quê quán ở tỉnh Vĩnh Long. Khi 14 tuổi, Ngài sang Cambodia tìm hiểu
Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda) trong bốn năm (1937 - 1941). Sau đó về Việt
Nam và trải qua những biến cố trong đời sống, Ngài xuất gia tu hành rồi ngộ đạo
tại tỉnh Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên Giang) vào năm 1944. Sau hai năm ẩn tu, Ngài
bắt đầu công bố giáo pháp. Năm 1954, Đức Tôn sư thọ nạn và vắng bóng, các thế
hệ kế thừa tiếp tục hoằng truyền giáo pháp phát triển đến nay.
Dầu thời gian
hoằng pháp ngắn ngủi, chưa đầy mười năm, nhưng Đức Tổ sư không chỉ mở mang mối
đạo mới, mà còn xây dựng hoàn thiện nền đạo ấy về giáo lý, giáo luật, giáo hội,
phương pháp tu tập, văn hóa tôn giáo, cơ sở tôn giáo… Về giáo pháp, phần lớn tư
tưởng và hành trì trong Phật giáo Khất Sĩ theo truyền thống Phật giáo Nguyên
thủy, lấy 37 pháp Chánh giác [1] làm nền tảng căn bản. Về giới luật, hệ phái sử
dụng Giới bổn của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) - một bộ phái thuộc hệ thống
Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) thời kỳ đầu, mà Phật giáo Đại thừa Việt Nam đang
sử dụng. Đặc biệt, Ngài biên soạn bộ tác phẩm Chơn lý gồm 69 quyển, được xem là tinh hoa tư tưởng của Đạo Phật
Khất Sĩ Việt Nam. Nhìn chung, sự kiến thiết hoàn bị như vậy là nền móng vững
chắc để hệ phái phát triển liên tục và vững mạnh trong gần một thế kỷ qua.
Trong đó, phương pháp tu tập được Đức Tổ sư rất coi trọng. Bởi, đối với bất kỳ tông phái nào trong đạo Phật, phương pháp tu tập luôn là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, vừa vạch rõ hướng đi cho người tu theo tông phái ấy, vừa là chỉ dấu cho sự khác biệt của mỗi tông phái. Phật giáo Khất Sĩ không ngoại lệ, phương pháp tu tập cho hệ phái được Đức Tôn sư hướng dẫn là thiền. Cần nhớ lại, đây chính là phương pháp giúp Ngài ngộ đạo sau bảy ngày đêm tinh tấn hành trì ven bờ biển. Song, thiền trong hệ phái Khất Sĩ không phải một cách nói chung chung mơ hồ, mà được triển khai rất chi tiết và xây dựng lịch trình thực hành cụ thể. Đáng tiếc là, đề tài nầy đến nay vẫn ít được quan tâm, như một nghiên cứu từng nhận định: “Việc hệ thống hoá phép tu thiền của hệ phái Khất Sĩ đến nay vẫn còn mới mẻ, nhất là đặt trong tương quan so sánh với Phật giáo Nam truyền.” [2] Thậm chí không ít người nhầm lẫn, cho rằng hệ phái không có pháp môn tu tập, hoặc tu theo Tịnh độ tông!
Nói về thiền, chúng ta biết đây là phương pháp tu tập nhằm rèn luyện tâm an định, tỉnh táo, sáng suốt. Thiền không phải là sáng tạo riêng của Phật giáo, mà trước đó các tôn giáo ở Ấn Độ đã thực hành. Tuy vậy, thiền Phật giáo có nhiều khác biệt so với các tôn giáo. Ngày nay, giới nghiên cứu Phật học trên thế giới cơ bản thống nhứt rằng Phật giáo có hai truyền thống thiền. Một là thiền Nguyên thủy (thiền Nam truyền) có nguồn gốc từ những lời dạy của Đức Phật, hai là thiền Tổ sư (thiền Bắc truyền) được phát triển bởi các thiền sư Trung Hoa. Tuy nhiên, đó chỉ là phân chia trên bề mặt, cốt lõi của hai dòng thiền đều hướng đến sự thấy biết minh triết về bản chất của vạn pháp, thông qua những kỹ thuật rèn luyện có phần khác nhau.
Từ phân tích
như trên, kết hợp với khảo sát và đối chiếu bộ Chơn lý của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, có thể khẳng định pháp môn tu
tập của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam là thiền Nguyên thủy, không áp dụng thiền Tổ
sư. Trong tác phẩm nói trên, tác giả nhiều lần đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp
tới thiền Nguyên thủy và các đề tài nhỏ hơn như thiền chỉ, thiền quán, quán
niệm hơi thở… Cụ thể:
- Quyển Nhập định (số 17) có thể được xem là
quan điểm tổng thể của Đức Tổ sư về thiền định, đồng thời có hướng dẫn cơ bản
về các đề mục thiền định.
- Hai quyển Số tức quan (số 58) và Pháp học Sa-di II (số 68) đề cập đến
thiền chỉ, trong đó quyển Số tức quan
trình bày phương pháp quán niệm hơi thở, quyển Pháp học Sa-di II liệt kê 40 đề mục thiền chỉ theo truyền thống Nam
phương Phật giáo.
- Quyển Pháp Chánh giác (số 57) đề cập đến thiền
quán, cụ thể là trình bày về bốn lãnh vực quán niệm, đặt trong mối quan hệ với
37 phẩm trợ đạo; đồng thời nó cũng được nhắc lại ở quyển Pháp học Sa-di III (số 69).
- Ngoài ra, một
số quyển có ít nhiều nhắc đến thiền như Cư
sĩ (số 20), Tâm (số 21), Thần mật (số 29), Vô Lượng Cam Lộ (số 50)…
Cần nói rõ,
thiền Nguyên thủy không chỉ là khuynh hướng được Đức Tổ sư lựa chọn trong pháp
tu thiền, mà gần như là pháp môn duy nhứt được Ngài kêu gọi và hướng dẫn thực
hành bài bản trong giáo pháp Khất Sĩ. Bởi, dù một số quyển trong Chơn lý có đề cập đến pháp môn Tịnh độ như
Pháp Tạng (số 49) và Vô Lượng Cam Lộ (số 50), một số quyển
gián tiếp thể hiện khuynh hướng thiền Tổ sư như Phật tánh (số 45) và Chơn như
(số 60)… [3] nhưng đó chỉ là những đề tài tư tưởng được Ngài đưa ra phân tích,
chứ không kêu gọi và hướng dẫn thực hành.
2. Bản chất, vai trò và ứng dụng của thiền
Chánh định là
chi phần sau cùng trong Bát Thánh đạo, chỉ trạng thái tâm yên lặng, vững vàng,
không xao động trước mọi tình huống. Chánh định có mặt với sự kết hợp của giới
và huệ, nói cách khác là sự kết hợp của bảy chi phần còn lại trong Bát Thánh
đạo. Đức Tổ sư Minh Đăng Quang rất đề cao vai trò của Chánh định, xem như nấc
thang tiệm cận Niết-bàn: “Cho nên gọi định là đạo Niết-bàn, để kết quả chơn như
sau khi giác ngộ. Chơn như sau vọng động, định sau khi loạn, giác sau khi mê.” [4]
(Cần chú ý, Ngài rất thường xuyên sử dụng thuật ngữ “chơn như” - một thuật ngữ
quan trọng trong triết học Phật giáo Đại thừa).
Từ góc nhìn đó,
Ngài nhận định bản chất của định là sẵn có nơi chúng sanh, nhưng đời sống nhiễm
ô khiến chúng sanh đánh mất sự định tĩnh ấy: “Chúng sanh ai mà không có định,
hoặc nhiều hay ít, hoặc trong giấc ngủ yên. Nhưng bởi sự sanh ra từ nhỏ tới lớn
là ở trong vật chất, trong cái ăn mặc ở bịnh, mà vật chất tứ đại thì vô thường
thay đổi biến hóa. Chúng ta mảng quanh quẩn đảo lộn mỗi ngày, còn có đâu giờ
phút rảnh rang mà xem xét lại, coi cái sống, cái biết, cái ta nó còn hay mất,
sống hay chết, lớn hay nhỏ ra sao? Nào ta có cần biết nó định hay không định!
Lắm kẻ quên lửng, đâu còn biết đến định là gì! Ích lợi chi?” [5]
Vậy nên ngày
nay, chúng ta cần trở lại định. Song, định không tự nhiên xuất hiện, hay hình
thành một cách độc lập. Đức Tổ sư cho rằng, để Chánh định cần sự kết hợp của
bảy chi phần còn lại trong Bát Thánh đạo. Đến khi đã Chánh định, các chi phần
đều có mặt, hành giả mặc nhiên sống đúng với Bát Thánh đạo. [6] Ngài phân tích
rất sâu sắc về mối quan hệ giữa phương tiện và giá trị, ban đầu bảy chi phần là
phương tiện đến Chánh định, khi thành tựu Chánh định thì bảy chi phần trở thành
giá trị của kết quả tu tập.
Với mối quan hệ
như thế, vai trò của định rất quan trọng. Ngài viết: “Người có định thì thân
khẩu ý mới trong sạch, tuy ít nói mà nói hay, tuy ít làm mà làm nên, tuy ít nhớ
mà nhớ phải, là được kết quả yên vui biết bao nhiêu? Và cũng nhờ định mà mắt tai
mũi lưỡi thân ý mới trọn lành hữu dụng, tốt đẹp trang nghiêm, mới ra con người
có giá trị, xứng đáng để nêu gương.” [7] Như vậy, thành tựu thiền định giúp
thân, miệng, ý trở nên sáng suốt, đúng đắng, trọn lành; không mê mờ, rối loạn,
phiền não.
Những thông tin
vừa trình bày là nói về mặt văn bản. Còn nói về ứng dụng tu tập, thiền là bắt
buộc đối với các nhà sư Phật giáo Khất Sĩ. Trong Luật nghi Giáo hội Tăng-già Khất sĩ [8] - giáo luật mang tính chất
nội bộ của hệ phái gồm 114 điều, Đức Tổ sư quy định ở điều thứ 35: “Cấm người
xuất gia mà không tu thiền định.” [9] Tương tự, một chỗ khác, Ngài nhận xét:
“Kẻ Khất sĩ mà không có định là ra người khất cái.” [10]
Ngài còn đặt ra
Niết-bàn thời khắc biểu là thời khóa
tu học dành cho người xuất gia trong Phật giáo Khất Sĩ. Trong đó, các nhà sư
mỗi ngày có sáu hoạt động gồm khất thực (8 - 9 giờ), thọ thực (11 - 12 giờ),
thuyết pháp (15 - 16 giờ) và ba lần thiền định (5 - 6 giờ, 18 - 19 giờ, 0 - 1
giờ). [11] Điều đó vừa cho thấy thiền có tần suất và thời lượng vượt hơn hẳn
hoạt động khác trong sinh hoạt và tu học hằng ngày vừa cho thấy sự tu học của
hệ phái có trình tự, quy củ, thống nhứt.
Với quy định về
thiền trong Luật nghi Giáo hội Tăng-già
Khất sĩ, cũng như vị trí của thiền trong Niết-bàn thời khắc biểu, đã khẳng định tầm quan trọng của thiền
trong quan điểm của Đức Tổ sư và trong tu tập của hệ phái Khất Sĩ. Cũng nói
thêm, ngoài giá trị trong tu tập, Ngài còn nhắc đến giá trị của thiền định
trong đời sống đối với sức khỏe và tâm trí: “Dầu chưa phải là đại định lâu
ngày, chớ cái định trong chốc lát nó cũng giúp cho ta biết bao điều khỏe khoắn
nghỉ ngơi, và làm cho ta được tỉnh táo trí huệ.” [12]
3. Thiền chỉ
Thiền Nguyên
thủy có hai hình thức là thiền chỉ (samatha bhāvanā, cũng dịch là thiền định,
thiền chỉ tịnh) và thiền quán (vipassanā bhāvanā, cũng dịch là thiền tuệ, thiền
minh sát). [13] Trong đó, thiền chỉ là phương pháp tập trung tâm vào một đề
mục, dừng lại những suy nghĩ tán loạn, mang lại sự an định cho người thực
hành.
3.1. Bốn mươi đề mục
Thiền chỉ theo
Thượng tọa bộ có 40 đề mục cho hành giả lựa chọn. Kế thừa truyền thống đó,
trong quyển Pháp học Sa-di II, Đức Tổ
sư Minh Đăng Quang liệt kê đầy đủ 40 đề mục gồm 10 đề trước mặt, 10 đề tử thi,
10 đề niệm niệm, 4 đề vô lượng tâm, 4 đề vô sắc, 1 đề bất động, 1 đề tưởng. [14]
Sau khi liệt kê
40 đề mục, Đức Tổ sư giải thích rõ đề mục nào phù hợp với người có tâm tánh
nào. Đồng thời, trong quyển Nhập định,
tuy không liệt kê chi tiết từng đề mục, nhưng Ngài hướng dẫn tổng quát cách ứng
dụng các đề mục. Theo đó, hành giả không cần sử dụng tất cả 40 đề mục khi thực
hành, mà chỉ nên lựa chọn một đề mục phù hợp với bản thân. [15] Bởi, mỗi người
có tâm tánh khác nhau, nên người nầy có thể phù hợp đề mục nầy, nhưng người kia
lại phù hợp đề mục khác.
Cùng với liệt
kê đề mục và những đối tượng phù hợp để thực hành, Đức Tổ sư còn chỉ ra 30 đề
mục đưa đến nhập định gồm 10 đề trước mặt, 1 đề hơi thở, 10 đề tử thi, 1 đề
thân thể, 4 đề vô lượng tâm, 4 đề vô sắc. Ngài cũng chỉ ra đề mục nào có thắng
lực đưa đến tầng thiền nào, cụ thể:
- 11 đề mục có thể đem tâm từ sơ định tới ngũ định: 10 đề trước mặt, 1 đề hơi thở
- 11 đề mục có thể đem tâm đến sơ định: 10 đề tử thi, 1 đề thân thể- 3 đề mục có thể đem tâm từ sơ định tới tứ định: 1 đề từ, 1 đề bi, 1 đề hỷ- 5 đề mục có thể đem tâm từ tứ định đến ngũ định: 4 đề vô sắc, 1 đề xả. [16]
Còn lại 10 đề
mục Ngài không nhắc đến, vì chúng chỉ đưa đến cận định gồm 8 đề niệm niệm còn
lại (trừ đề thân thể và đề hơi thở), 1 đề bất động, 1 đề tưởng.
Nhìn chung,
quan điểm về 40 đề mục, trong đó 30 đề mục đưa đến nhập định, cơ bản không khác
Phật giáo Nam truyền. Tuy nhiên, các đề mục đưa đến các tầng thiền có vài điểm
khác biệt nhỏ. Đó là Phật giáo Nam truyền cho rằng 1 đề từ, 1 đề bi, 1 đề hỷ
chỉ đưa đến tam định; 1 đề xả đưa đến tứ định; 4 đề vô sắc đưa đến bốn tầng
thiền Vô sắc giới. [17]
3.2. Quán niệm hơi thở
Dù trong hai
quyển nói trên, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã nói đến 40 đề mục, nhưng có một đề
mục được Ngài phân tích trong một chuyên luận riêng, đó là quán niệm hơi thở, ở
quyển Số tức quan. Cần nhắc lại, quán
niệm hơi thở cũng từng được Đức Phật giảng dạy ở một bài kinh là Kinh Nhập tức xuất tức niệm. [18]
Tuy nhiên trong
thiền Phật giáo, hơi thở có thể là đối tượng của thiền chỉ hoặc thiền quán. Kinh Nhập tức xuất tức niệm nói về quán niệm
hơi thở theo thiền quán. Trong khi đó, tác phẩm Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) của Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm)
trước tác vào thế kỷ V nói về quán niệm hơi thở theo thiền chỉ. Quyển Số tức quan nói về quán niệm hơi thở
cũng chủ yếu theo thiền chỉ.
Về nội dung quyển nầy, Đức Tôn sư trình bày pháp
tu thiền với đề mục là hơi thở, nhưng có thể áp dụng nhiều cách thức, tùy theo
căn tánh và năng lực của mỗi người. Đồng thời, Ngài cảnh báo người tu thiền để
ý tới các hiện tượng xảy ra trong khi thực hành, điều tiết cho thích hợp, tránh
rơi vào cực đoan: “Về hơi thở, người ta luyện tập cách nào cũng được, cốt yếu
là để tập định, nhưng lúc hành thì phải kinh nghiệm, xem chừng từ chút sự khác
lạ, kẻo thái quá bất cập có điều trở ngại, tai hại cho thân thể, làm mất an vui
tấn hóa. Người ta cũng có thể cần phải biết ra nhiều cách thở, để đặng thay đổi
pháp hành tùy theo nhơn duyên trình độ, cho đặng thuận tiện tinh tấn.” [19]
Từ quan điểm
định có sẵn nơi chúng sanh, Ngài cho rằng số tức quan là phương tiện để trở về
định. Bởi thế, người thực tập cần thái độ khách quan, không can thiệp vào hơi
thở: “Vậy thì tất cả các phép tu không có phép nào qua sự tự nhiên, vì tự nhiên
chơn như là định, trung đạo, còn các pháp tu là dùng trừ thái quá bất cập, để
đặng giữ cái trung đạo tự nhiên chơn như định, chớ không phải tu là để tìm thái
quá bất cập, hai bên lề. Bởi cái sống, biết, linh là ai cũng đang sẵn có, mà vì
bị thái quá bất cập, tà pháp ngăn che ám muội. Hiểu như thế tức là cũng như
không có tu tập luyện rèn chi, miễn đừng thái quá bất cập vọng loạn, và không
nên chấp có hơi thở tưởng đếm chi số tức quan.” [20]
Góc nhìn nầy
phảng phất tinh thần “dụng mà không dụng, không dụng mà dụng” của thiền Tổ sư. Khi
đó, hành giả thiền trong tâm thái ung dung, không chấp vào sự dụng công, như
không thiền. Nhưng thật ra, không chấp vào sự dụng công mà tâm thái vẫn ung
dung, chính là thiền.
Ngoài ra có một
chi tiết đáng lưu ý, đó là Đức Tổ sư mạnh dạn nêu lên trở ngại đối với quán
niệm hơi thở nói riêng và thiền nói chung trong bối cảnh Việt Nam: “Nhưng phong
tục ở xứ này, phần nhiều có học tiên gia, tu theo pháp hữu vi, chấp có hình
thức, mau hiệu nghiệm, lại dễ làm cho lớp kém, nên ham thích hơn pháp vô vi tự
nhiên, theo chơn lý vĩnh viễn thường bền của võ trụ nhà Phật.” [21] Quả vậy,
khá đông Việt Nam ưa thích thần quyền tha lực, ít có người nhận thức và hành
trì thiền đúng đắn. Bởi thế, việc mở rộng các cách thức quán niệm hơi thở đã
thể hiện tinh thần tùy duyên hóa độ của Ngài, nhằm phù hợp với con người và xã
hội.
3.3. Năm tầng thiền và năm chi thiền
Đối với thiền
Phật giáo, quá trình tiến bộ của người tu thiền sẽ đi qua các tầng thiền, tức
các cấp độ mà người ấy có thể dần đạt được trong thiền. Chính Đức Phật cũng
trải qua các tầng thiền trong tiến trình chứng đắc đạo quả. Theo Thánh điển
Pāli, Kinh tạng liệt kê bốn tầng
thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, Luận tạng
(Vi diệu pháp) liệt kê thêm năm tầng
thiền từ Sơ thiền đến Ngũ thiền.
Ở mỗi tầng
thiền, hành giả thực tập với các trạng thái tâm (tâm sở, sở hữu tâm) hỗ trợ, đóng
vai trò là các chi thiền. Có năm chi thiền là tầm (hướng tâm đến đề mục), tứ
/ sát (bám sát vào đề mục), hỷ
(hân hoan trải nghiệm đề mục), lạc
(sự dễ chịu khi thiền định), nhất tâm
/ định (tâm an trụ vững vàng). [22]
Theo hệ thống
Tứ thiền của Kinh tạng, Sơ thiền có
đầy đủ năm chi thiền, đến Nhị thiền thì không còn tầm và tứ, từ đó cứ tiến
lên một tầng thiền thì một chi thiền giảm đi. Theo hệ thống Ngũ thiền của Luận tạng, Sơ thiền có đầy đủ năm chi thiền,
từ đó cứ tiến lên một tầng thiền thì một chi thiền giảm đi. Nói cách khác, theo
Kinh tạng thì tầm và tứ có mặt ở Sơ
thiền và không còn ở Nhị thiền, theo Luận
tạng thì Nhị thiền không còn tầm
mà vẫn còn tứ.
Đức Tổ sư Minh
Đăng Quang triển khai hệ thống các tầng thiền và các thi thiền vừa có phần
giống với Kinh tạng, vừa có phần
giống với Luận tạng, nhưng cũng có
nét riêng biệt. Trước hết về số lượng các tầng thiền tùy vào mỗi đề tài được
trình bày, Ngài có thể liệt kê bốn tầng thiền hoặc năm tầng thiền. Việc triển
khai hệ thống Ngũ thiền là điểm giống với Luận
tạng. Điểm giống với Kinh tạng là
chi thiền tầm sát có mặt ở Sơ thiền, đến Nhị thiền thì không còn.
Ngoài điểm
giống, các tầng thiền và các chi thiền theo quan điểm của Đức Tổ sư có đôi nét
khác biệt. Đầu tiên, tầm sát được xem
như một chi thiền. Trong Kinh tạng,
Sơ thiền được mô tả là “một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ”, [23] đồng nghĩa tầm
và tứ là hai chi thiền độc lập, nhưng
cùng có mặt trong một tầng thiền là Sơ thiền. Trong Chơn lý, về văn tự, Ngài diễn đạt tầm sát như một chi thiền (không có chữ “và” hoặc dấu phẩy); nhưng
về ý nghĩa, Ngài giải thích là “tầm tõi quán xét”, đúng ý nghĩa hai chi thiền trong
Kinh tạng.
Điểm khác biệt tiếp
theo, Ngài liệt kê thêm một chi thiền là tịnh
(trạng thái tâm trong sạch), nằm giữa lạc
và định, có mặt từ Sơ thiền đến Tứ
thiền. Vì sao có chi thiền nầy? Có thể đó là kinh nghiệm chứng ngộ của bản thân
mà Ngài nhận thấy cần thiết triển khai. Song, chính tác giả Chơn lý không giải thích lý do bổ sung
chi thiền ấy, do vậy chúng tôi với tư cách là người đọc không thể tự ý phỏng
đoán. Để phần nào tìm hiểu về hệ thống các chi thiền theo quan điểm của Đức Tổ
sư, chúng ta có thể khảo sát một số đoạn kiến giải của Ngài.
Chẳng hạn:
“Cũng như có TẦM SÁT là tầm tõi quán xét, thấy rõ lẽ thật mới có sự mừng. Có HỶ
mừng vì lẽ đã gặp được đường đi, mới có sự vui. Có LẠC vui khi đã đi tới trúng
đường, không còn khổ não thì thân tâm trí mới trong sạch. Có TỊNH sạch, ý mới
yên lặng đứng ngừng, không còn bị sự lôi cuốn hấp dẫn nên mới ĐỊNH.” [24]
Ở chỗ khác,
Ngài diễn giải theo hai chiều nghịch và thuận: “Muốn ĐỊNH thì phải trong sạch,
không không, thanh tịnh. Muốn TỊNH thì phải có sự vui. Muốn VUI phải có mừng. Muốn
MỪNG phải có sự tầm tõi quán xét. Có TẦM SÁT thấu hiểu chơn lý lẽ đạo, mới có
sự mừng. Hết mừng mới đến vui. Hết vui mới đến tịnh sạch. Có tịnh sạch mới có
định.” [25]
4. Thiền quán
Thiền quán là
sự quán xét các sự vật hiện tượng một cách sâu sắc, thấy biết đúng bản chất và
quy luật vận hành của chúng, nhờ đó đoạn trừ phiền não, đưa đến trí
tuệ. Trong thiền quán, hành giả quán xét bốn lãnh vực (tứ niệm xứ) là thân,
cảm thọ, tâm, các pháp. Đây là tinh hoa của thiền Phật giáo, được Đức Phật
khẳng định trong nhiều kinh điển, tiêu biểu là Kinh Niệm xứ: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến
thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn niệm xứ.” [26]
Trong Pāli tạng,
Đức Thế Tôn dạy quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên
tâm, quán pháp trên các pháp. Đến Hán tạng, tứ niệm xứ trở thành quán thân
không thanh tịnh, quán các cảm thọ là khổ, quán tâm không cố định, quán các
pháp không bản thể (thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã).
Đây là sự biến đổi từ tứ niệm xứ nguyên thủy, cho thấy những khía cạnh tiêu
biểu của tứ niệm xứ, nhưng chưa thể hiện trọn vẹn tứ niệm xứ.
Đức Tổ sư Minh
Đăng Quang vẫn kế thừa tứ niệm xứ nhưng triển khai có đôi chút khác biệt. Quyển
Pháp Chánh giác dành phần lớn dung
lượng nói về bốn xứ niệm và một phần
nhỏ nói về bốn dứt đoạn, bốn thần thông, năm căn bổn, năm sức lực,
bảy ý giác, tám chánh đạo - đó là 37 phần Bồ-đề hay 37 pháp Chánh giác theo
cách gọi của Ngài. Cần chú ý, tên gọi các chi phần nói trên được Việt hóa rất
gần gũi, thay vì các tên gọi truyền thống là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, bốn thần
túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo. Điều đó cho thấy tinh thần
đổi mới Phật giáo rất thực tiễn của Ngài.
Tứ niệm xứ theo chia sẻ của Đức Tổ sư trong quyển Pháp Chánh giác là quán xét bốn đối tượng không thật có, quan điểm nầy được phân tích rất chi tiết. Ngoài ra, trong quyển Pháp học Sa-di II, Ngài nói thêm rằng hành giả cần quán xét bốn đối tượng là vô thường, khổ não, vô ngã; quan điểm nầy chỉ được liệt kê mà không phân tích, như bổ sung cho quan điểm trên. (Ở hai quyển nầy, yếu tố “thọ” đôi khi được thay bằng “bịnh”).
Như vậy, thiền
quán theo lời dạy của Đức Tổ sư lấy thấy biết đúng về Duyên sinh (không thật
có) làm trọng tâm và Tam pháp ấn (vô thường, khổ não, vô ngã) làm bổ trợ.
Chúng ta biết, nhà Phật cho rằng mỗi sự vật hiện tượng không tồn tại độc lập,
mà phụ thuộc vào nhiều điều kiện cấu thành (duyên sinh). Bởi thế, nó không có
bản thể (vô ngã), liên tục biến đổi chứ không đứng yên (vô thường), mang đến phiền
não khổ đau cho người chấp thủ (khổ não). Quán xét bốn lãnh vực theo Duyên sinh
và Tam pháp ấn, về văn tự thì không hoàn toàn trùng khớp với truyền thống Pāli
tạng hay Hán tạng, nhưng về tư tưởng thì hoàn toàn không trái với giáo lý của
Đức Thế Tôn.
Cùng với sự
phân tích về bốn lãnh vực quán niệm, thiết tưởng chúng ta cần nói thêm về mối
quan hệ giữa thiền chỉ với thiền quán theo quan điểm của Đức Tổ sư. Trong Phật
giáo, thiền chỉ có thể giúp hành giả tạm thời an trú trong hiện tại, làm yếu đi
các phiền não nhưng không trừ dứt; thiền quán mới có thể diệt sạch phiền não,
đưa đến Niết-bàn. Song, trên bình diện thực tiễn, Đức Phật và chư vị tổ sư
không bài bác thiền chỉ, mà xem là điểm tựa để phát triển thiền quán. Chính Đức
Thế Tôn khi tường thuật sự chứng ngộ của bản thân qua Đại kinh Saccaka đã cho biết, với nền tảng là “tâm định tĩnh, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình tĩnh”, Ngài dẫn tâm, hướng tâm đến Tam minh (Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận minh) và giải thoát hoàn toàn. [27] Như vậy, tâm định
tĩnh là tiền đề quan trọng cho tiến trình quán tâm sau đó. Tương tự, Đức Tổ sư ngày
nay chẳng những không bài bác thiền chỉ, mà còn đề cao vai trò của nó trong
pháp tu thiền. Đây cũng là sự kế thừa quan điểm chủ đạo của Đức Phật và lịch đại
tổ sư trong thiền tập là chỉ quán song tu.
5. Định trong mối quan hệ với giới và huệ
Đối với đạo
Phật, giới (đạo đức), định (thiền định), huệ (trí tuệ) là ba trụ cột quan
trọng, phải có mặt đồng thời trong lộ trình tu tập của mỗi người. Điều đó được
Đức Thế Tôn khẳng định trong nhiều bài kinh, tiêu biểu là Kinh Đại Bát-niết-bàn: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ
đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn
toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.” [28]
Tương tự, trong
quyển Thần mật, Đức Tổ sư Minh Đăng
Quang khẳng định: “Vậy nên sự học của người là học giới, học định, học huệ. Sự
tu của người là trau giới, trau định, trau huệ, tức là sự học tu theo lẽ thật
đúng phép, mới tránh được sự nguy hiểm của tương đối, sự dối giả của lạc lầm.”
[29] Bởi thế, khi phân tích về định, Ngài luôn đặt trong mối quan hệ với giới
và huệ, không tách biệt.
Nói về mối quan
hệ giữa định và giới, Ngài dạy: “Có chánh mới có định. Chánh đạo là năng sanh
định quả. Chánh là thiện, thiện là không ác, ác là che mất bản tâm, che mất bản
tâm là quên định. Cho nên, kẻ không định là ác tà loạn vọng, rối khổ tơi bời,
không đường lui tới. Vậy muốn định thì phải ngăn ngừa ác và tránh xa chỗ ồn ào,
tức là giữ giới luật […] Thế nên, đời sống của ta phải cho có kỷ luật, giới
nhiều là định nhiều, giới ít là định ít, không giới là không định.” [30]
Nói về mối quan
hệ giữa định và huệ, Ngài dạy: “Cho nên, tâm định thì trí mới huệ, huệ nhiều ít
là do định. Định nhiều là huệ nhiều, định ít là huệ ít, không định là không
huệ. Có huệ được học tỏ sáng mới hết mê lầm. Không mê lầm là không vọng động
theo cảnh chiêm bao mộng ảo của lớp thấp thỏi đầu tiên.” [31]
Trong lộ trình
tu tập thiền định, quan điểm của Đức Tôn sư rất nhứt quán trong mối quan hệ
giữa định với giới và định với huệ, theo khuynh hướng tỷ lệ thuận. Muốn định
cần nền tảng là giới, muốn huệ cần nền tảng là định, sự phát triển của huệ phụ
thuộc vào mức độ nhập định, sự phát triển của định phụ thuộc vào mức độ giới
hạnh của người tu. Từ đó, Ngài khuyến khích cư sĩ xuất gia trở thành Khất sĩ,
bởi Ngài cho rằng giới Khất sĩ mới có thể đi đến đại định, giới cư sĩ chỉ có
thể tập dần nhập định chút ít mà khó đạt được đại định. [32] Quan điểm cư sĩ
nên xuất gia làm Khất sĩ không chỉ được nêu ra khi nói về thiền định, mà đối
với nhiều chủ đề trong Phật giáo, Ngài đều nhứt quán quan điểm ấy.
6. Đóng góp của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang
về thiền
Thiền chỉ và
thiền quán là phương pháp tu được Tăng đoàn thực hành từ thời kỳ Đức Phật còn tại
thế. Đến thời kỳ Phật giáo Bộ phái, các bộ phái vẫn duy trì pháp tu nầy. Thậm
chí đến Phật giáo Đại thừa, thiền chỉ và thiền quán tiếp tục được xem trọng.
Điển hình là Đại thừa khởi tín luận -
bộ luận quan trọng của triết học Đại thừa đã đặc biệt đề cao vai trò của thiền
chỉ và thiền quán trong sự tu tập của hành giả Đại thừa.
Tuy vậy trên
thực tế, từ khi thiền Tổ sư phát triển, các quốc gia chịu ảnh hưởng Phật giáo
Trung Hoa đã xem trọng thiền công án, thoại đầu, mặc chiếu… trong đó có Việt
Nam. Đỉnh cao của thiền Tổ sư ở Việt Nam là thiền phái Trúc Lâm, do Trần Nhân
Tông sáng lập, mà trước đó Trần Thái Tông đặt nền tảng tư tưởng qua tác phẩm Khóa hư lục.
Song song đó,
một dòng chảy phát triển mạnh mẽ trong quần chúng bình dân là pháp môn niệm
Phật theo Tịnh độ tông. Pháp môn nầy kêu gọi tín đồ trì niệm danh hiệu A Di Đà
để vãng sanh về Tây phương Cực lạc. Đặc biệt ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX, các tôn giáo bản địa ra đời đã cổ xúy Tịnh độ tông, khiến pháp
môn nầy trở thành chủ đạo trong Phật giáo ở vùng đất mới.
Giữa bối cảnh
đó, thiền Nguyên thủy gần như chỉ tồn tại trong Phật giáo Nam tông của cộng
đồng Khmer ở Nam Bộ. Cuối thập niên 1930, Phật giáo Nam tông được truyền bá cho
người Việt, đánh dấu sự trở lại của dòng thiền nầy trong cộng đồng nầy. Giữa
thập niên 1940, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam ra đời, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã
triệt để hành trì và truyền bá thiền Nguyên thủy. Trong quá trình phục hồi và
phát triển dòng thiền nầy ở Việt Nam, cùng với nhiều Tôn đức, Ngài đã tích cực
tham gia và để lại những đóng góp đáng ghi nhận:
Một là, góp phần vào công cuộc truyền bá
thiền Nguyên thủy ở Việt Nam. Giữa lúc thiền Nguyên thủy gần như bị lãng
quên trong Phât giáo Việt Nam và mới phục hồi chưa lâu, Đức Tổ sư đã tự thân
hành trì miên mật, đồng thời tích cực tham gia truyền bá dòng thiền nầy, bằng
cách hướng dẫn trực tiếp cho hội chúng đệ tử và biên soạn tác phẩm để lại cho
đời sau. Trong xã hội đang thạnh hành Tịnh độ tông, thiền nói chung và thiền
Nguyên thủy nói riêng dường như đi ngược dòng đời. Song, sự phát triển của Tăng
đoàn Khất Sĩ thanh tịnh, những thành tựu trong tu tập của chư Tôn đức, kết quả
thiết thực trong hướng dẫn quần chúng tu học… đã chứng minh cho hướng đi đúng
đắn mà Ngài lựa chọn.
Hai là, ứng dụng thiền Nguyên thủy linh
hoạt, sáng tạo, phù hợp với người Việt Nam đương thời. Du nhập một dòng
thiền từ nước ngoài, Đức Tổ sư đã cố gắng Việt hóa bằng nhiều hình thức như:
(1) Sử dụng và giải thích các thuật ngữ bằng tiếng Việt dễ nắm bắt, (2) Hướng
dẫn quy trình thực hành rõ ràng, (3) Kết hợp một số kinh nghiệm cá nhân. Tuy
nhiên, những điều đó vẫn bảo đảm tính kế thừa truyền thống thiền Nguyên thủy,
không biến dạng. Qua đây, chúng ta nhớ lại tôn chỉ khai tông lập giáo của Ngài
là “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp - Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam”, tức vừa kế
thừa truyền thống Chánh pháp của Đức Phật Thích Ca, vừa kiến tạo nền Phật giáo
phù hợp với dân tộc Việt Nam.
Ba là, hình thành dòng thiền Nam truyền mang
bản sắc Việt Nam. Thiền trong thiền phái Trúc Lâm thuộc thiền Tổ sư, nhưng
không phải “bản sao” của thiền Trung Hoa. Bởi, nó chắt lọc các yếu tố từ ba
thiền phái trước đó là Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và các yếu
tố dân tộc. Do đó, nó có thể được xem là dòng
thiền Bắc truyền mang bản sắc Việt Nam. Tương tự, thiền trong hệ phái Khất
Sĩ thuộc thiền Nguyên thủy, nhưng không phải “bản sao” của thiền ở các quốc gia
Nam phương Phật giáo. Bởi, nó vừa kế thừa truyền thống, vừa linh hoạt điều
chỉnh và sáng tạo cho phù hợp với thời đại, xã hội, con người. Rõ ràng, không
thể phủ nhận thiền trong hệ phái Khất Sĩ là thiền Nguyên thủy, nhưng nó không
hoàn toàn giống với thiền ở Cambodia, Lào, Thái Lan, Myanmar… Do đó, nó có thể
được xem là dòng thiền Nam truyền mang
bản sắc Việt Nam, góp thêm sự đa dạng cho khuynh hướng thực hành thiền và
lịch sử thiền học.
7. Thay lời kết
Qua bộ tác phẩm
Chơn lý, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã
phân tích về thiền rất chi tiết, chứng tỏ Ngài đã nghiên cứu và hành trì thiền
rất uyên thâm. Một mặt, Ngài kế thừa những tinh hoa trong truyền thống thiền
Nguyên thủy. Mặt khác, Ngài đưa ra những kiến giải khác biệt đôi chút, có thể
bắt nguồn từ kinh nghiệm của bản thân, hoặc phù hợp với bối cảnh xã hội. Tuy
vậy, với tinh thần uyển chuyển canh tân nhưng kiên định kế thừa, thiền trong
phân tích của Ngài luôn bám sát những tư tưởng cốt lõi của Đức Phật.
Đối với thế
giới nói chung, điều đó cho thấy sự phát triển của lịch sử thiền luôn đi liền
với sự phong phú trong khuynh hướng tiếp nhận và thực hành. Đối với Việt Nam
nói riêng, Phật giáo Khất Sĩ đã góp phần vào công cuộc truyền bá thiền Nguyên
thủy, hình thành dòng thiền Nam truyền mang bản sắc dân tộc. Như vậy, không
phải Phật giáo Khất Sĩ không có pháp môn tu, trái lại pháp môn tu được xây dựng
rất bài bản.
Chơn lý có dung lượng đồ sộ với 69
quyển, trong đó Đức Tôn sư đề cập đến thiền định rất nhiều lần, trực tiếp hoặc
gián tiếp. Trong giới hạn về khuôn khổ bài viết và năng lực bản thân, chúng tôi
khó có thể khảo sát và phân tích đầy đủ. Tuy vậy, người viết đã cố gắng điểm
qua một số nét nổi bật trong quan điểm về thiền của Ngài. Từ đó, tác giả hy
vọng giới nghiên cứu quan tâm hơn và tiếp tục đóng góp nhiều công trình có giá
trị về đề tài thiền trong Phật giáo Khất Sĩ.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 195, 2025)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. Đây là cách gọi của Đức Tổ sư, các văn điển Phật giáo khác còn gọi là 37 phần Bồ-đề, 37 phẩm trợ đạo… tức 37 yếu tố hỗ trợ hành giả trên lộ trình tu tập.
2. Thích Minh Nhẫn (2023), “Số tức quan trong bộ Chơn lý: Sự tiếp nối truyền thống thiền định Phật giáo”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 414, tr. 26.
3. Số thứ tự các quyển Chơn lý được ghi theo bản gốc mà Đức Tổ sư sắp xếp, các bản in hiện nay có thay đổi.
4. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý, Nxb Tổng hợp TP.HCM, tr. 221.
5. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 187.
6. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 188-189.
7. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 191.
8. Trong bản in Chơn lý - Luật nghi Khất sĩ hiện nay, văn bản nầy được gọi là Luật nghi Hệ phái Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam.
9. Tổ sư Minh Đăng Quang (2017), Chơn lý - Luật nghi Khất sĩ, Nxb Tổng
hợp TP.HCM, tr. 267.
10. Tổ sư Minh Đăng Quang
(2016), Sđd, tr. 197.
11. Tổ sư Minh Đăng Quang (2017), Sđd, tr. 48.
12. Tổ sư
Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 187.
13. Giới nghiên cứu Phật học có tranh luận về sử dụng và dịch các thuật ngữ, giữa samatha và samādhi, vipassanā và paññā, giữa chỉ và định, quán và tuệ. Ở đây, người viết tạm ghi theo truyền thống Phật giáo Việt Nam là thiền chỉ và thiền quán.
14. Đây là tên gọi các đề mục được Đức Tổ sư sử dụng, tác phẩm khác liệt kê tên đề mục có khác biệt, tùy theo cách dịch từ tiếng Pāli sang tiếng Việt của mỗi dịch giả.
15. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 195.
16. Tổ sư Minh Đăng Quang (2017), Sđd, tr. 123-124.
17. Viên Minh (2022), Thiền Phật giáo Nguyên thủy và Phát triển, Nxb Đà Nẵng, tr. 187-188.
18. Bài kinh thứ 118 trong Kinh Trung bộ, tên Pāli là Ānāpānasati Sutta, cũng dịch là Kinh An ban thủ ý, Kinh Quán niệm hơi thở, Kinh Niệm hơi thở vô hơi thở ra…
19. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 669.
20. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 670.
21. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 669.
22. Tên gọi “tứ” và “sát”, “nhất tâm” và “định” là cách dịch khác nhau của mỗi dịch giả, nhưng ý nghĩa không sai khác.
23. Kinh Trường bộ (2013), Sđd, tr. 78.
24. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 189.
25. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 221.
26. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo,
tr. 85.
27. Kinh Trung bộ (2012), Sđd, tr. 307-308.
28. Kinh Trường bộ
(2013), Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 284.
29. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 337.
30. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 186.
31. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 186.
32. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Sđd, tr. 197.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Kinh Trung bộ
(2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
2. Kinh Trường bộ (2013), Thích Minh Châu dịch, Nxb
Tôn giáo.
3. Thích
Minh Nhẫn (2023), “Số tức quan trong
bộ Chơn lý: Sự tiếp nối truyền thống
thiền định Phật giáo”, Tạp chí Văn hóa
Phật giáo, số 414.
4. Tổ
sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý, Nxb
Tổng hợp TP.HCM.
5. Tổ
sư Minh Đăng Quang (2017), Chơn lý - Luật
nghi Khất sĩ, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
6. Viên
Minh (2022), Thiền Phật giáo Nguyên thủy
và Phát triển, Nxb Đà Nẵng.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét