Đã mấy năm dư không về nữa
Cuối nẻo trời quê mây trắng bay
Đời ta là một hòn bi nhỏ
Cứ lăn đi trên những dốc dài…
(thơ Trịnh Bửu Hoài)
Một buổi trưa của những ngày cuối năm. Nắng! Cái nắng
ngạo ngược chèn xuống từng dãy nhà, từng con phố. Người ta nói rằng Sài Gòn
không có mùa đông? Ừ, có lẽ. Chỉ còn non tháng nữa là đến Tết, vậy mà nó vẫn dữ
dội, cố bám níu chưa chịu ra đi. Cả thành phố rộng hơn hai ngàn cây số vuông bị
đè nén, bóp dẹp lại như chỉ còn là một khoảng đất chật chội, ngột ngạt.
Người ta bước ra đường hầu như phải ngốn tất tần tật
những tiếng ồn ào nào còi, nào nhạc, nào tiếng la, tiếng rao, chưi bới, kêu
réo… đủ hầm bà lằng các loại. Rồi còn phải ăn bụi, nuốt bụi, uống bụi, tắm bụi.
Con người biến thành người bụi. Chưa đi xe đã cảm thấy mắt cộm cộm, xốn xốn,
nghe lỗ tai lùng nhùng đủ thứ tiếng. Nặng nề hơn là mũi và miệng, thấy nhỏ xíu
vậy đó, mà ôi thôi cả một ngụm bụi thật lớn chui qua cái ót, ngọt sớt. Ai cũng
ngại ra đường, thôi thì tốt nhất nhà ai nấy ở, đóng cửa, bật quạt cho đỡ oi
bức. Khỏi ra đường, cũng đỡ phải hứng bụi, đỡ phải nghe tầng tầng lớp lớp những
thanh âm khó chịu.
Ông Bằng từ phía đầu đường tất tả đi về nhà. Mắt ông
ngó đăm đăm con đường phía trước. Nhìn mà như mất hồn, như xoáy vào một khoảng hư
vô. Mà nhìn cái gì, cũng chẳng ai biết, có thể chính ông cũng không biết. Nhìn
cho có nhìn, vậy thôi! Nắng vẫn còn gắt quá! Tướng tá ông ốm yếu, mảnh khảnh
nên nhìn dáng đi như cũng liêu xiêu, ngả nghiêng theo nắng. Cái bóng ông thu
xéo về một phía, nhỏ xíu, mỏng tang. Hai ống quần ông xắn cao, để lòi ra hai
khúc ống quyển đen đúa, còm cõi. Ông Bằng có tật ra đường thường xắn cao ống
quần, nhìn y chang nông dân đang lội ruộng. Có người chọc:
“Sài Gòn dạo này đâu có ngập lụt, xắn quần chi cao dữ
vậy?”.
Ông chỉ cười:
“Quen rồi. Hồi ở dưới quê vậy, giờ lên đây cái gốc quê
mùa của mình bỏ đâu được”.
Cặp theo con đường dẫn vào nhà ông Bằng là hai dãy
hàng quán đối diện nhau. Bên nầy, dãy cà phê - nhà hàng - khách sạn cao tầng
mọc san sát, có cửa kính để nhìn xuống phố phường, có máy lạnh cho khách không
còn cái cảm giác nóng bức. Bước vào trong ấy, tưởng chừng mình đang ở Paris chứ không phải Sài
Gòn. Nhưng Paris là ở đâu? Ông Bằng chưa từng biết? Cũng chưa từng bước vào
những nhà hàng bên đường lần nào. Vậy mà ông cam đoan rằng nó y chang như Paris, ai hỏi tới cũng
huyên thuyên thế.
Phía bên kia cũng một dãy hàng quán chạy dài, nhưng là
quán vỉa hè, cạnh đó là những gánh hàng rong bún riêu, cháo lòng, mì gõ… và cả
một cái chợ chồm hổm. Ông Bằng thường nghĩ, không biết ai “thiết kế” ra chỗ
này, cũng lạ. Trong khi những người sang trọng ngồi trên cà phê cao tầng với
cái không khí vừa đủ cho sự không - thích - nắng, thì ngược lại bên này tuy có
hơi oi bức nhưng lại cho ta một cảm giác bình yên, thân thuộc lạ thường.
Ông Bằng bước vào nhà một cách uể oải, vẻ mặt thất
thần, đôi mắt lừ đừ chẳng thèm nhìn ngó gì ai. Ông lột cái nón lưỡi trai cũ mèm
quăng xuống bàn rồi lên võng nằm, chiếc võng cứ lắc lư đều đều, nghe cót két.
“Chà! Giờ này thì chắc hai thằng con của mình đang long nhong đâu đó ngoài
đường. Lạ! Trời nắng như vầy… chắc tụi nó da trâu?”. Ông Bằng lẩm bẩm, rồi vắt
tay lên trán, ra chiều đăm chiêu.
Vợ ông từ đằng sau bước ra, thấy chồng nằm trên võng,
bà ghìm ông. Một cái liếc bén ngót chém vào làn gió hiếm hoi đang phả qua. Bà
nói với vẻ trách móc: “Ủa, đi uống cà phê giờ này mới về đó hả? Sao không ngoài
quán thêm chút nữa, về chi sớm vậy?”. Ông Bằng cứ nằm đưa võng, không thèm để ý
đến lời nói của vợ. “Giờ này chắc anh Hai đang hóng gió ngoài đầu vàm”.
Con đường dài trước mặt với hai dãy hàng quán hồ như
mờ mờ dần. Chỗ đó, trước mặt ông, một khúc sông đang dâng cao hiện rõ dần, rõ
dần. Hai bên sông có là những đám lao sậy cao lều nghều rập rình huơ huơ. Bây giờ, trong căn nhà này, trên thành phố
này, ông chợt thấy mình cứ như vừa bị rớt cái đùng xuống dòng sông sâu hoắm ấy.
Ông giơ tay lên cao, chới với, nhưng chẳng còn thấy gì, thân mình trở nên nặng
trịch, chìm nghỉm, sâu thiệt sâu!
“Ông Bằng!”.
Ông không thèm quay lại, khẽ nhếch mép:
“Gì?”.
“Bộ ông điếc rồi hả, tôi nói mà sao không trả lời gì
hết vậy?”.
Lại im lặng. Thật lâu sau, ông Bằng mới lên tiếng:
“Anh Hai ở dưới vừa mới điện lên…”.
“Sao, anh Hai nói gì?”.
“Anh Hai hỏi… Tết này cả nhà mình có về dưới quê
không?”.
Vợ ông tỏ ra lo lắng, hai mắt căng tròn, chau đôi chân
mày lại, móm mém:
“Rồi… ông nói sao?”.
Ông Bằng vẫn nằm y như lúc nãy, không nhúc nhích, chỉ
có cái miệng là khẽ cử động.
“Thì nói không về được. Tiền bạc đâu mà về?”.
Ông không nói nữa, nghe như có cái gì chạy rần rần bên
ngực trái. Nó chạy tuốt lên trên não, lại quẹo xuống sống mũi, rồi chạy vô khóe
mắt. Vỡ tung ra, cay sè. Căn nhà tự dung trở nên lặng đi một cách ảm đạm, vợ
ông cũng nín bặt, thở dài.
Sài Gòn là đất của dân ngụ cư. Từ xa xưa, dân tứ xứ đã
về đây lập nghiệp, đến nay thành phần đông nhất của đất Sài Thành vẫn là những
người lưu xứ. Có người đã giàu có, muốn lên đây phát triển sự nghiệp thêm. Cũng
có những người nghèo, lên đây muốn đổi đời. Cũng có người đơn giản chỉ là mong
kiếm đủ tiền cho con ăn học, đủ tiền nuôi mẹ già, con nhỏ… Ông Bằng cũng là dân
ngụ cư, quê ông ở tận vùng biên giới Châu Đốc, bỏ nhà, bỏ quê lên đây kiếm
sống. Từ căn chòi nhỏ nơi mảnh đất quê nghèo, vợ chồng ông dắt díu hai đứa con
nhỏ ra đi, hẹn vài năm sau sẽ trở về. Anh chị Hai đứng chết trân trên con đường
cặp bên bến sông, hai tay cứ huơ huơ mặc dầu chiếc xe đò đã đi xa lắm rồi. Nhớ
tới đó mà thương cho anh chị. Nước mắt Bằng ông ứa ra từ hồi nào, giàn giụa.
Mười hai năm. Đủ để ông có căn nhà ọp ẹp. Đủ để hai
đứa con mới ngày nào là những thằng nhóc, bây giờ đã trưởng thành. Và cũng đủ
để ông nếm được hết sự dày vò, dằn vặt của kiếp tha phương. Ông Bằng nhận ra
rằng, khoảng thời gian đi đến thành đạt của những người xa quê đủ để khẳng định
bản lĩnh và sự kiên trì của họ nơi xứ người, nhưng đối với quê nhà, họ vẫn là
những kẻ trắng tay. Đó là những người đã thành đạt, còn ông chưa thành đạt nên
lại càng day dứt hơn với quê nhà.
Lúc đầu ông Bằng hẹn với anh Hai khi nào có dư giả một
chút sẽ về thăm quê. Gì chứ chuyện đó, dễ ợt! Lên Sài Gòn kiếm tiền dễ hơn ăn
cơm. Vài năm nữa về quê, vợ chồng ông Bằng trở thành dân thành thị, con nít dòm
mà thèm thuồng. Cái mùi thành thị nó ra làm sao? Thơm phức. Ông Bằng thèm có
cái mùi thơm ấy bám vào áo mình, nó bám dai lắm. Tự dưng đang nghĩ ngon lành,
cái mùi khét nắng trên áo đâu lại đổ nhào ra. Cái mùi thành thị chưa chạm được
người ông đã bị cái mùi khét nắng đó đánh bẹp, bay mất. Chừng như cái mùi khét
nắng đó còn bám lâu hơn, dai hơn cái mùi thơm thành thị kia. Thơm mẹ gì, hôi
rình! Cái mùi quạnh hiu của xứ lạ bó khít rịt lấy ông, thở hụt hơi muốn ngộp.
“Vài năm nữa vợ chồng em kha khá rồi về”. Cứ ngỡ rằng
cái “kha khá” trong lời hẹn ấy sẽ là ba bốn năm, hay năm sáu năm gì đó. Có ai
ngờ đi là đi biệt. Những năm đầu, anh Hai không rủ về quê vì biết rằng gia đình
em mình mới đến xứ người, chưa dư giả mấy, sẽ không đủ tiền về. Nhưng vài năm
gần đây, năm nào đến Tết anh Hai cũng điện thoại lên, hối về. “Xứ sở mình mà”.
Mỗi lần nghe anh mình nói vậy ông Bằng lại đau nhói. Câu nói ngắn ngủn, nói ra
nhanh như chớp. Vậy mà nó lôi cả một cơn buồn dài từ hồi còn ở quê tới khi đã
thành cư dân thành thị, đổ ầm trước mặt ông. Nó biểu, đó, coi đi, dai dẳng lắm!
Mười mấy năm sống ở đây, để đủ tiền lo cho gia đình
ông Bằng phải làm rất nhiều việc. Từ đạp xích lô, chạy xe ôm, khuân vác, phụ
giúp tiệm cơm, phụ hồ… và nay thì đang làm công nhân cho một xí nghiệp đóng
giày. Đồng lương èo ọt lo đủ cho chuyện ăn, chuyện mặc, còn những chuyện hưởng
thụ thì phải xếp hàng… chờ đợi. Hai tiếng “về xứ” đối với ông như là một món
quà xa xỉ, muốn lắm nhưng lại không dám nghĩ tới, chứ đừng nói là chạm vào.
Tiền xe đi và về cho cả nhà bốn người, lại rồi tiền ăn uống, ngủ nghỉ ở quê dăm
ba bữa. Rồi chẳng lẽ ở xa xứ về quê mà không “lì xì” cho tụi nhỏ một ít. Tính
ra cũng bộn!
Bữa cơm chiều nay hình như chỉ có hai thằng con trai
ăn thôi. Cả ông Bằng và vợ nuốt không trôi, có cái gì đó nghèn nghẹn, ứ tắc ở
cổ họng. Mắt hai ông bà nhìn vào mâm cơm nhưng tâm hồn thì chạy long nhong ở
đẩu ở đâu. Có lẽ nó nằm ở cái cù lao nghèo giữ mênh mông trời nước, hay ở con
sông quê có hai độ lớn ròng cũng nên. Bỏ đũa xuống mâm, mắt ông lơ đễnh ngó ra
đường. Hai đứa con nhìn ba mình rồi lại quay vô mâm cơm ăn tiếp, bởi vì cảnh
này đâu phải lạ, cứ lâu lâu ổng lại đăm chiêu, cứ như có chuyện gì to tát lắm
sắp sửa xảy ra. Ông Bằng nhìn hai thằng con của mình, đã gần hai mươi hết rồi
mà chưa đứa nào ra hồn.
Ngoài đường, đã thấy vài ba chậu mai của nhà hàng xóm
được lặt sạch lá. Ừ, thì Tết đã gần kề…
* * *
Tối nay trên ti vi có phát chương trình “Miền Tây sông
nước”. Đây là “món ruột” của ông Bằng, ông mê lắm, cứ cứ đến tối chủ nhật thì
dầu giá nào cũng phải mở xem, chỉ đơn giản là để bớt nhớ quê. Tối nay vài người
bạn rủ ông nhâm nhi. “Cuối tuần rồi phải thư giãn chứ!”. Một người đã nói với
ông như thế. Ông Bằng muốn đi, nhưng vẫn thấy tiếc chương trình quen thuộc của
mình. Nghe đâu hôm nay phỏng vấn ông giáo sư nào đó ở Hậu Giang, sống bên Mỹ
mấy chục năm bây giờ lại quay về Việt Nam sống. Ông nghĩ mấy cha học cao
cũng có đầu óc khác người. Tự dưng đang sống bên Mỹ ngon lành lại bay về Việt Nam. “Mà chắc
bởi vậy mới làm giáo sư được chớ!”. Nhưng thôi, xem làm gì, có xem hoài thì
cũng có về xứ như ông giáo sư đó được đâu, mà lại càng thêm nhớ nhà, càng thấy
mình có lỗi với xứ sở.
Nhưng không hiểu sao gần đến giờ phát sóng ông Bằng
lại thay đổi. Ông tất tả chạy xe đạp về, bỏ mặc bao nhiêu lời chèo kéo, thậm
chí là chê trách của bạn bè. “Thôi, tụi bây lai rai đi, tao có công chuyện gấp!
Vậy nhe, hẹn gặp sau”. Còn năm phút nữa là đến giờ bắt đầu chương trình, ông
nhẩm tính từ đây chạy về mất khoảng mười phút. “Chà, tiêu rồi, trễ mẹ nó”. Đôi
chân gân guốc ốm tong dùng hết sức quay vội vã hai bàn đạp của chiếc xe có từ
thời Ngô Đình Diệm, hai vòng xe cũ kỹ lăn đều đều giữa phố phường tấp nập.
Quăng chiếc xe xuống sân mà không thèm dựng, mặc cho
nó ngã kềnh ra, ông Bằng tất tả chạy vào nhà bật ti vi. Cái ti vi cũng có tuổi
đời khá “thọ”, bật lên phải đợi một lúc sau mới lên hình. Trên ti vi phát ra
giọng cô dẫn chương trình trong trẻo:
“Thưa ông, ông có thể nào cho biết là vì sao ông lại
trở về Việt Nam,
mặc dù điều kiện sống và làm việc ở Mỹ rất tốt?”.
Ông giáo sư già cười nhẹ, bắt đầu cất giọng. Nghe
giọng ông ấy, ông Bằng thấy buồn thúi ruột. Buồn chỉ vì một lý do nhỏ xíu là
ông già trải bao nhiêu năm ở xứ lạ nhưng cái chất giọng vẫn còn rất “miệt
vườn”, rất “chân quê”. Vậy thôi, cũng đủ thấy buồn.
“Ở bên đó tốt thiệt chớ! Ngặc nỗi thiếu thốn đủ thứ
hết…”.
Người trên ti vi chưa nói hết câu, nhưng người xem đã
tỏ ý không hài lòng. Ông Bằng nhếch mép: “Cha này nổ quá! Bên Mỹ vậy mà còn chê
thiếu thốn, vậy thế nào đối với ổng mới đủ trời?”. Cái giọng trầm trầm trên ti
vi lại tiếp tục, vừa nói vừa cười phúc hậu:
“Thiếu cá linh, thiếu mắm, thiếu bông điên điển… ăn
uống không có vô. Đồ đạc xài trong nhà cũng thiếu, không có chiếu, không có rổ
tre, kiếm cây chổi bông sậy không ra. Ui! Sống mà thiếu tùm lum thứ hết, chịu
hết nổi, dìa!”.
Tự dưng ông Bằng lặng người. Đôi mắt ông cộm cộm. Có
cái gì đó rai rức lắm, cứ luồng sâu vào trong lồng ngực đang nóng hôi hổi của
ông. Ông quên hết, bỏ ngoài tai hết tất cả những lời nói trên ti vi, đôi mắt
già mua cũng không còn dán vào tấm kính phẳng ấy nữa, mà nó mờ mờ, mờ dần…
“Ừ phải rồi, thiếu… thiếu nhiều lắm !”.
* * *
“Bà ơi, ngày
mốt cả nhà mình về quê, ở dưới quê ăn Tết mấy bữa với dòng họ. Qua Tết rồi mình
trở lên làm lại”.
Bà Bằng giựt mình. Trời, ông chồng mình bữa nay nổi
khùng nói gì vậy.
“Ông… ông mới nói gì đó? Thiệt hay chơi?”.
“Tôi nói bà nãy giờ mà bà không nghe hả? Mốt mình về
quê, qua Tết trở lên”.
“Mà… tiền đâu mà đi ?”.
“Chèn ơi! Sao bà lo xa quá! Tôi đã kêu về quê thì về
đi, hẳn phải có cách. Về một lần, rồi… chết cũng được. Đỡ hơn chết già trên nầy
vì chờ đợi. Thôi tính vậy đi, đừng cãi nữa. Chút sắp nhỏ về bà kêu tụi nó sửa
soạn đồ đạc nghe, ra chợ mua vài thứ về cúng ông bà…”.
Một chiếc xe chạy ngang trước cửa nhà ông Bằng, phía
sau xe chở theo một chậu mai. Ông nhìn thấy trong chậu mai nó có những nụ đầu
tiên đã bật tung ra khỏi lớp vỏ, bừng lên ánh vàng tinh khôi.
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Thời báo Kinh doanh, số ra ngày 7/3/2012 & in trong
tập truyện ngắn Trở về và chào nhau, Nxb Văn hóa Văn nghệ, 2015)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét