“Hai di tích một bên sườn núi
Mặt trời
chiếu qua mỗi buổi như nhau
Một ăn mặn
và một ăn chay
Cũng đều
vì đất chết cho đất
Một danh
tướng với một nhà sư
Ai thoát
trần ai còn lụy tục.”
Đó là những vần thơ
được nhà thơ Hồ Thanh Điền (Nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh An
Giang) viết về hai di tích gắn liền với hai danh nhân lịch sử đã có công lớn
trong quá trình xây dựng và phát triển vùng đất biên thùy An Giang. Đó là di
tích lăng Thoại Ngọc Hầu và mộ Đức Phật Thầy Tây An, cùng nằm bên sườn núi Sam
- thành phố Châu Đốc.
Từ trung tâm thành
phố đi theo con đường Tân Lộ Kiều Lương vào đến núi Sam, điểm đầu tiên bạn bắt gặp sẽ là ngôi
chùa Tây An đồ sộ và cổ kính nằm ngay tại ngã ba. Đây
là di tích đầu tiên trong “hai di tích một bên sườn núi” nói trên. Chùa
ban đầu được Tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm 1847, với tên Tây An mang một
thông điệp đầy ý nghĩa là ước mong bờ cõi phía Tây của đất nước được yên ổn.
Chùa thuộc tông Lâm Tế, dòng Bổn Nguyên, trụ trì đầu tiên là tổ sư Tiên Giác - Hải Tịnh. Song, hòa thượng chỉ
được thỉnh làm trụ trì trên danh nghĩa chứ không trực tiếp quản lý và hành đạo ở
đây, vì lúc nầy đang trụ trì chùa Giác Lâm ở Gia Định. Năm 1849, Đức Phật
Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856) đến tu tại chùa. Ông là một nhà dinh
điền, nhà yêu nước, đặc biệt là người sáng lập đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương - tôn giáo bản địa đầu tiên ở Nam Kỳ.
Khoảng năm 1847
- 1849 quanh vùng Hậu Giang xảy ra dịch bệnh, ông đi nhiều
nơi trị bệnh cho dân và khuyên mọi người tu hành. Bị triều đình nghi ngờ là
“gian đạo sĩ”, nên họ buộc ông đến chùa Tây An xuất gia. Tại đây, ông tiếp tục
trị bệnh cho dân và phổ truyền giáo lý của mình, làm ngôi chùa càng thêm nổi tiếng.
Người đời tôn xưng ông là Đức Phật Thầy Tây An. Ông viên tịch ngày 12 tháng 8
âm lịch, ngày nầy hằng năm trở thành lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, thu hút hàng
chục ngàn người khắp miền Tây về dự.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương dạy tín đồ báo
đáp Tứ ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam bảo, ân đồng bào nhơn loại.
Tu không coi trọng hình thức, không bày trí hình tượng mà chỉ thờ trần điều (tấm
vải đỏ sẫm), cũng không tụng kinh. Tín đồ không xuất gia, vừa làm ăn sinh sống,
vừa tạo tác phước điền. Chủ trương của Đức Phật Thầy là không ngồi chờ đắc đạo
mà phải làm lụng phục vụ cuộc sống, không “xuất thế” mà “nhập thế”. Do đó ông
đã cùng các đệ tử khẩn hoang nhiều nơi, lập nên những mô hình gọi là “trại ruộng” mang hai chức năng là vừa
canh tác vừa tu tập, dần dần hình thành làng
xóm.
|
Chùa Tây An (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Ngày nay, chùa Tây An là một công
trình kiến trúc đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. chùa được trùng tu nhiều
lần qua các đời trụ trì, nhưng diện mạo như hôm nay là có từ lần đại trùng tu
năm 1958 do hòa thượng Thích Bửu Thọ công đức, với dáng dấp kiến trúc Ấn - Hồi.
Chùa nằm trên nền cao thoáng rộng, tựa lưng vào núi Sam vững chãi phía sau. Trước
chánh điện có ba cổ lầu, ngôi giữa nóc tròn và đỉnh nhọn như các tháp Ấn Độ, có
tượng Phật đứng bên trong, hai bên là lầu chuông và lầu trống. Nhìn chung, nội
- ngoại thất chùa Tây An được tạo tác công phu và tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ,
làm nên sự hài hòa mà cũng rất sáng tạo và khác biệt.
Đặc biệt, chùa Tây An là một trong những
ngôi chùa có nhiều tượng nhứt An Giang, với khoảng 200 pho tượng. Đa số các tượng
được làm bằng gỗ, chạm trổ sắc nét, đậm triết lý Phật giáo. Bước vào chánh điện
chùa Tây An là bạn đã bước vào một không gian cổ xưa trầm mặc. Quanh chánh điện,
những bức tượng đầy màu sắc được điêu khắc sinh động nằm xen lẫn giữa những
hoành phi liễn đối bóng loáng được thếp vàng rực rỡ, tạo nên không khí u tịch. Phía
sau chùa ngày nay vẫn còn ngôi mô đơn sơ của Đức Phật Thầy Tây An, mộ để đất bằng
chứ không đắp nấm - theo như lời dặn của ông.
Cách chùa Tây An không xa, một di
tích khác cũng cùng “một bên sườn núi” là lăng Thoại Ngọc Hầu. Lăng nằm trên nền
cao tựa lưng vào núi Sam, là nơi an nghỉ của Trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu
và nhị vị phu nhân. Lăng còn được gọi là Sơn
lăng hoặc lăng Quan lớn Bảo hộ, lăng Bảo hộ Thoại hay đơn giản là lăng Ông. Dân gian có câu ca dao: “Đi
ngang qua cảnh núi Sam / Thấy Lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi / Ông ngồi vì nước
vì đời / Hy sinh tài sản không rời nước non.”
Thống chế Thoại
Ngọc Hầu (1761 - 1829) là bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn, người đặt nền móng trong việc hình
thành và xây dựng đất An Giang. Ông tên thật là Nguyễn Văn Thoại, quê ở Quảng
Nam, theo mẹ chạy loạn về cù lao Dài (Vĩnh Long). Năm 16 tuổi, ông đầu
quân với chúa Nguyễn Ánh, liên tục túc trực bên chúa, lập nhiều công lớn. Sau
nhiều nhiệm vụ khác nhau, cuối cùng ông được giao Trấn thủ Vĩnh Thanh. Trong thời
gian ở Vĩnh Thanh, ông đã thực hiện các công trình đào kinh, đắp đường, góp phần
phát triển miền biên viễn.
Năm 1818, ông chỉ huy đào kinh Thoại
Hà dài 30 km nối Long Xuyên - Rạch Giá. Sau đó, ông tiếp tục chỉ huy đào kinh
Vĩnh Tế từ năm 1819 đến 1824, nối Châu Đốc - Hà Tiên dài 90 km. Ghi nhận những
công lao đó, triều Nguyễn lấy tên ông và vợ để đặt cho hai dòng kinh và hai ngọn
núi là Thoại Sơn (núi Sập) và Thoại Hà, Vĩnh Tế sơn (núi Sam) và Vĩnh Tế hà.
Ngoài ra, năm 1826 - 1827, ông cho đắp đường Tân Lộ Kiều Lương dài 5 km nối từ
thành Châu Đốc đến núi Sam. Ông cũng cho lập nhiều làng xóm dưới chân núi Sam,
núi Sập và ở cù lao Dài, phát triển sản xuất, thúc đẩy giao thương…
Lăng Thoại Ngọc Hầu (Ảnh: Vĩnh Thông)
Lăng Thoại Ngọc Hầu là công trình kiến
trúc cổ kính và đặc sắc, với một tổng thể hài hòa từ cổng vào đến bình phong,
khu mộ, đền thờ, cây cảnh… mang phong cách lăng tẩm triều Nguyễn. Muốn lên đến
lăng bạn phải bước qua chín bậc thang đá ong. Toàn bộ khu lăng được xây bằng hồ
ô dước, bao bọc bởi bức tường dày và cao, bền chắc. Cổng vào lăng có hình bán
nguyệt đồ sộ.
Trong khu chính có ba ngôi mộ xây bằng
hồ ô dước. Ngôi mộ ở giữa là của Thoại Ngọc Hầu, bên phải của chánh thất Châu
Thị Tế, bên trái nhỏ hơn là của thứ thất Trương Thị Miệt. Mỗi ngôi mộ có kiến
trúc mang dáng dấp đền miếu, trước mộ có bức bình phong dày dặn che chắn. Phía
sau khu mộ là đền thờ Thoại Ngọc Hầu nhỏ gọn, đơn giản, đậm nét truyền thống. Trong
đền bày trí trang nhã, tôn nghiêm, với điểm nhấn là tượng bán thân Thoại Ngọc Hầu.
Thoại Ngọc Hầu Nguyễn
Văn Thoại và Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên là hai danh nhân kiệt xuất đã
có công lao to lớn với miền viễn Tây của Tổ quốc. Như lời nhà thơ Hồ Thanh Điền
đã viết, hai con người ấy “cũng đều vì đất chết cho đất” mặc dù vị thế của họ
khác nhau “một danh tướng với một nhà sư”. Hai di tích gắn liền với hai vị danh
nhân mãi mãi là nơi người dân đời sau dành sự tưởng nhớ và tri ân một cách
thành kính.
Bài & ảnh: VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Báo Sài Gòn giải phóng &
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét