Ông Bổn là một trong những đối tượng tín ngưỡng phổ biến của tộc người Hoa ở Nam Bộ. Tùy theo từng cộng đồng hoặc địa phương, quan niệm về vị thần nầy có thể khác nhau. Ở thành phố Châu Đốc (tỉnh An Giang), người Hoa phần lớn thuộc nhóm phương ngữ Triều Châu, họ xem Ông Bổn là Tam Sơn Quốc Vương. Đây là ba vị thần cai quản ba ngọn núi ở vùng Triều Châu (Trung Quốc). Khi di cư, người Hoa đã mang theo tín ngường nầy đến các vùng đất mới, trong đó có Châu Đốc. Đặc biệt, tín ngưỡng nầy gắn liền với nghi thức nhập đồng hết sức độc đáo đã tồn tại hàng thế kỷ. Từ lâu, niềm tin và thực hành tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương đã gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa tâm linh của người Hoa nói riêng và cư dân Châu Đốc nói chung.
1. Nguồn gốc tín ngưỡng
Ông Bổn hay Bổn
Đầu Công là vị thần mang tính biểu tượng chứ không hẳn là nhân vật lịch sử cụ
thể. Người Hoa xem Ông Bổn là phúc thần của vùng đất sở tại, có vai trò bảo hộ
cộng đồng, tương tự Thành Hoàng của người Việt hay Neak Ta của người Khmer. Mặc
dù mỗi cộng đồng người Hoa từng nơi có quan niệm khác nhau về Ông Bổn, nhưng chung quy họ vẫn
xem đây là vị thần mang lại cuộc sống ấm no cho mọi người.
Ông Bổn đôi khi
được đồng nhứt với Trịnh Hòa (1371 - 1433), một viên quan triều Minh, đồng thời
cũng là nhà hàng hải nổi tiếng của Trung Quốc,
chỉ huy những chuyến thám hiểm nhiều nơi trên thế
giới. Có người lại cho rằng Ông Bổn là Châu Đạt Quan (1266 - 1346), một vị quan triều Nguyên từng là
sứ thần sang Chân Lạp và để lại tác phẩm nổi tiếng là Chân Lạp phong thổ ký. Một nghiên cứu cho biết, với người Triều
Châu và Hải Nam thì Ông Bổn là chức Bổn Đầu Công của Trịnh Hòa, còn người Phước
Kiến cho rằng Ông Bổn là Châu Đạt Quan [Nguyễn Hữu Hiếu 2010: 137]. Nhiều nơi
khác, một số cộng đồng Hoa còn có thể đồng nhứt Ông Bổn với Thổ Thần, Phước Đức
Chánh Thần, Tam Sơn Quốc Vương…
Tác giả Nguyễn
Xuân Nghĩa [1984: 195-196] phân tích: “Đồng bào Hoa quan niệm Ông Bổn là vị thần
cai quản một khu vực đất đai và cả những con người sống trên địa vực đó. Nói
cách khác, họ quan niệm đây là một vị thổ thần. Đối với các cư dân nông nghiệp,
cũng như đối với đồng bào Hoa có nguồn gốc là nông dân, vị thần đất chính là vị
thần đem lại của cải, sự giàu có, thịnh vượng, hạnh phúc và sự bình yên cho mọi
người. […] Tín ngưỡng ông Bổn, mặc dù có nguồn gốc xa xưa là tục thờ thần đất của
các cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, đã bị phong kiến hóa phần nào và đã được người
di dân Hoa nhân cách hóa…”
Đưa ra những lý
giải trên, chúng tôi muốn giải thích vì sao ngôi miếu của người Triều Châu ở
phường Vĩnh Mỹ - thành phố Châu Đốc có bảng tên là “Tam Sơn miếu” và đối tượng
được thờ cúng chính của miếu là Tam Sơn Quốc Vương, nhưng người dân lại gọi là
miếu Ông Bổn. Bởi, Ông Bổn được xem là vị phúc thần sở tại, đối với người Tiều ở
Châu Đốc thì Tam Sơn Quốc Vương chính là Ông Bổn của cộng đồng mình. Mặt khác,
cư dân nơi đây không đồng hóa Ông Bổn với Phước Đức Chánh Thần, vì trong miếu vẫn
có bàn thờ riêng dành cho Phước Đức Chánh Thần.
Tam Sơn Quốc
Vương là một trong những hình thái tín ngưỡng đặc thù của người Triều Châu, bắt
nguồn từ quan niệm sùng bái núi non của cư dân Hoa Nam cổ xưa. Tín ngưỡng nầy
ra đời trên vùng đất Yết Dương, ngày nay là thành phố Yết Dương - tỉnh Quảng
Đông (Trung Quốc). Tại đây có ba ngọn núi là Cân Sơn, Minh Sơn và Độc Sơn. Tam
Sơn Quốc Vương chính là ba vị sơn thần cai quản ba ngọn núi nầy. Thế danh của
thần Cân Sơn là Liên Kiệt, thần Minh Sơn là Triệu Hiên và thần Độc Sơn là Kiều
Tuấn. Ba vị cai quản Tam Sơn từ thời nhà Tùy (581 - 619) và về sau thường hiển
linh. Ngày nay, ngôi miếu trung tâm của tín ngưỡng nầy là Tam Sơn tổ miếu, tọa lạc ở nhai đạo Hà Bà, huyện Yết Tây, thành phố
Yết Dương, tỉnh Quảng Đông.
Trong dân gian
có nhiều giai thoại về Tam Sơn Quốc Vương. Chẳng hạn chuyện kể năm 970, quân Tống
tiến đánh Nam Hán, [1] Tống Thái Tổ Triệu Khuôn Dận khi dẫn quân đến vùng Yết
Dương đã cầu xin Tam Sơn Quốc Vương phò hộ. Sau khi thắng trận, vua sắc phong
cho thần Cân Sơn là Thanh Hóa Uy Đức Báo Quốc Vương, thần Minh Sơn là Trợ Chánh
Minh Túc Ninh Quốc Vương và thần Độc Sơn là Huệ Uy Hoằng Ứng Ninh Quốc Vương
[Lâm Thanh Quang 2017: 5]. Một câu chuyện khác kể rằng, ba ông kết nghĩa huynh
đệ với nhau và tu hành trên núi, nhờ có công cứu giá Tề Vương đi tuần gặp nạn,
nên được vua phong thần và cho cai quản Tam Sơn [Lâm Tâm 1994: 98-99].
2. Miếu Tam Sơn
Tam Sơn miếu ở phường Vĩnh Mỹ có niên đại khoảng 200 năm. Tam Sơn Quốc
Vương được người địa phương gọi theo tiếng Tiều lần lượt là Ích Quán (Nhứt
Vương), Dì Quán (Nhị Vương) và Sam Quán (Tam Vương). Giai thoại dân gian kể rằng,
những người Triều Châu đầu tiên đến Châu Đốc đã mang theo ba pho tượng của Tam
Sơn Quốc Vương và lập miếu thờ ở ba nơi: miếu Nhứt Vương ở thành phố Hà Tiên (tỉnh
Kiên Giang), [2] miếu Nhị Vương ở xã Đa Phước (huyện An Phú) và miếu
Tam Vương ở phường Vĩnh Mỹ (thành phố Châu Đốc) đều thuộc tỉnh An Giang.
Ngoài ra, người
Hoa ở Vĩnh Mỹ còn lưu truyền một giai thoại khác. Họ kể rằng, nơi đây ban đầu
là ngôi miễu nhỏ ven đường, thờ Thổ Thần. Một lần nọ có người phụ nữ bị tà nhập
hóa điên, khi đi ngang miếu đã vào xin nhập đồng trị bịnh. Bấy giờ, một người
Minh Hương bán rau cải đã nhập đồng và xưng là Sam Quán, rồi dùng các hình thức
bùa phép để chữa trị cho người nữ ấy [Tư liệu điền dã 2017]. Trong hai giai thoại
trên, chúng ta đều nhận thấy ban đầu ngôi miếu chỉ là nơi thờ riêng Tam Vương.
Như vậy, đến sau nầy người dân mới thờ thêm tượng hai vị còn lại.
Kiến trúc miếu
Tam Sơn ngày nay mang phong cách pha lẫn truyền thống và hiện đại. Nóc miếu có
dạng phía trên là cổ lầu và phía dưới là mái hiên, bờ nóc gắn tượng lưỡng long
tranh châu, mái cong hình thuyền và lợp ngói tiểu đại. Điểm nhấn ở mặt tiền
ngôi miếu là cổ lầu mang hình thức như sân thượng, hai bên vách có cầu thang để
đi lên. Đây là phong cách kiến trúc hiếm bắt gặp ở các miếu khác của người Hoa
tại Nam Bộ. Trên cổ lầu có hai bảng đề “Tam Sơn miếu” bằng chữ Hán và chữ Quốc
ngữ.
Bước vào miếu, tại
cửa chánh có hoành phi “Tam Sơn Quốc Vương” và liễn đối “Tam Sơn cứu giá lạc hồi
anh linh dân gian tại / Quốc Vương ngự phong thánh đức vô tư hiệp cảnh an” đều
được sơn son thếp vàng. Nội thất chánh điện được trang hoàng bằng nhiều hoành
phi, liễn đối, bao lam, thành vọng… với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện. Tất cả kết
hợp thành một không gian thâm nghiêm mà hài hòa.
Trước chánh điện
có thiên tỉnh - khoảng trống không có nóc, mang chức năng tiếp nhận ánh sáng,
thông thoáng không khí, giảm bớt sự ngột ngạt. Đối xứng hai bên thiên tỉnh có
phù điêu tả thanh long - hữu bạch hổ, trước hình thanh long có bồn nước và trước
hình bạch hổ có bồn cây cảnh, thể hiện triết lý âm dương và mang ý nghĩa phong
thủy. Ngày nay, khu vực thiên tỉnh của miếu đã được xây nóc khoảng giữa, chỉ
còn chừa trống hai bên.
Về cấu trúc thờ
tự, từ ngoài vào đầu tiên bàn thờ Sơn Quân có tượng Ông Hổ, tiếp đến là bàn thờ
Hội Đồng Chư Thần, cuối cùng vị trí cao nhứt là bàn thờ Tam Sơn Quốc Vương. Hai
bên bàn thờ chánh có bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu bên trái và Phước Đức Chánh Thần
bên phải, cặp theo hai vách có bàn thờ Tiền Quá Vãng và Hậu Quá Vãng. Phía sau bàn thờ Hội Đồng Chư Thần có
ba chiếc ghế được đặt đối diện với bàn thờ Tam Sơn Quốc Vương. Ở giữa là ghế
dao có gắn những lưỡi dao vào mặt và lưng ghế, hai bên là hai ghế đinh (ghế
chông) có gắn những mũi đinh nhọn trên mặt ghế. Ba chiếc ghế nầy ngày thường được
phủ kín bằng vải đỏ, đến những ngày lễ lớn sẽ được mở ra và sử dụng cho nghi thức
nhập đồng.
Hằng năm, miếu tổ chức lễ Vía Ông
ngày 25 tháng 2, lễ Bố âm ngày rằm tháng 7 (có ý nghĩa là bố thí cho những âm hồn
không nơi nương tựa) và lễ cúng Bình an vào rằm tháng Chạp. Nghi thức trong lễ
Vía Ông ngày nay đã chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Việt, với lễ Túc yết diễn ra
vào 20 giờ ngày 24 và lễ Chánh tế lúc 4 giờ sáng ngày 25. Túc yết và Chánh tế
là hai nghi thức chính trong lễ cúng tại các đình làng của người Việt ở Nam Bộ,
mà người Hoa đã tiếp nhận vào hệ thống nghi lễ của mình. Tuy nhiên, ở miếu Tam
Sơn không có học trò lễ (lễ sanh), không đọc văn tế, không sử dụng nhạc lễ… như
đình thần. Đặc biệt, các dịp lễ lớn ở miếu thường diễn ra nghi thức nhập đồng -
một hình thức ma thuật vẫn còn duy trì đến ngày nay.
3. Nghi thức nhập đồng
Nghi thức nhập đồng
của người Hoa nhóm phương ngữ Triều Châu ở Châu Đốc được biết đến từ tín ngưỡng
Tam Sơn Quốc Vương, một tín ngưỡng ra đời thời nhà Tùy. Tuy nhiên, theo
Margaret Chan [2020: 41], hình thức nhập đồng nầy có nguồn gốc từ vùng Mân Nam
thuộc tỉnh Phước Kiến. Nó được gọi là “tongji” trong tiếng Quan thoại, phiên âm
Hán Việt là “đồng kê”, trong đó “đồng” là đứa trẻ và “kê” là thần thánh. Tiếng
Phước Kiến gọi nó là “tângki” còn tiếng Quảng Đông gọi là “geitung”.
Như đã trình
bày, người Triều Châu vốn có nguồn gốc là một bộ phận người Mân Nam tách ra khỏi
quê cũ. Do đó, họ đã đưa thực hành nghi lễ nầy vào văn hóa Triều Châu. Khi di
cư đến các quốc gia Đông Nam Á, người Triều Châu tiếp tục mang theo nghi lễ nầy.
Họ đi đến đâu cũng duy trì và phát triển nghi thức nhập đồng như Đài Loan, Thái
Lan, Malaysia, Singapore, Việt Nam… Dấu hiệu nhận diện những ngôi miếu có nhập
đồng là ba chiếc ghế sơn màu đỏ được đặt trong chánh điện, một ghế có gắn nhiều
lưỡi dao và hai ghế có gắn nhiều đinh nhọn.
Điểm đặc biệt
trong nghi thức nhập đồng nầy là các hình thức “hành xác”. [3] Người nhập đồng
sẽ xẻ lưỡi lấy máu vẽ bùa, xỏ cây qua miệng, đập trái đinh vào người, ngồi ghế
dao, đi trên than lửa… Sau khi nghi lễ kết thúc, người ta không tìm thấy vết
thương trên cơ thể họ. Theo nhà nghiên cứu Lâm Quang Hiển, hiện tượng nầy là:
“Dạng thần quyền của người Triều Châu tại vùng Yết Dương, chứ người Quảng không
có vụ nầy, nhưng qua đây người ta thờ chung. Những nơi có lên xác thường có ba
cái ghế nầy. Rõ ràng tín ngưỡng nầy là đặc sắc của người Hoa, bên cạnh miếu
Quan Đế” [Tư liệu phỏng vấn 2017].
Ngày nay,
nhập đồng vẫn còn tìm thấy ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên
Giang, Bình Dương… Tại thị xã Vĩnh Châu - tỉnh Sóc Trăng, Phước Đức cổ miếu (dân gian gọi là chùa Xà Bế) cũng thờ Ông Bổn là
Tam Sơn Quốc Vương và có nghi thức nhập đồng, trong lễ cúng Cảm Thiên Đại Đế ở Thanh Hòa cổ miếu cũng có nghi thức nhập
đồng với ba chiếc ghế như trên. Ở huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh, vào lễ Vu lan hằng
năm, sáu ngôi miếu thờ Ông Bổn đều có nghi thức nhập đồng là Vạn Niên Phong cung, Minh Đức cung, Vạn Ứng Phong cung, Thiên Đức
cung, Vạn Đức Phong cung, Niên Phong cung. Tại thành phố Phú Quốc
- tỉnh Kiên Giang, nghi lễ nầy xuất hiện ở Huê
Quang Đại Đế miếu (tên dân gian là chùa
Ông Gành Gió). Tại thành phố Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương, có hình thức nhập
đồng ở Phước An miếu thờ Thất Phủ Đại
Nhân của người Phước Kiến.
Với tỉnh An
Giang, nghi lễ nầy có mặt ở thành phố Châu Đốc (Tam Sơn miếu), thị xã Tân Châu (Quan
Đế miếu) và huyện An Phú (Nhị Vương
miếu). Ở miếu Tam Sơn, người nhập đồng là người cố định, được gọi là xác đồng hay phần xác. Dân chúng xem đó là “người được chọn”, nghĩa là do “bề
trên” chỉ định và không ai có quyền thay đổi. Khi nào phần xác qua đời, thần
linh sẽ chọn người phù hợp khác.
Về diễn tiến ở miếu Tam Sơn, ban đầu xác
đồng ở trần và mặc quần dài trắng, đứng trước bàn thờ chánh để cầu nguyện. Sau
khi Ông Bổn về xác, xác đồng sẽ bôi mặt
bằng bột màu đỏ, mặc vào người bộ trang phục màu đỏ và đội mão đỏ. Theo truyền
thuyết, do ba ngọn núi Cân Sơn - Minh Sơn - Độc Sơn lần lượt tương ứng với ba
màu xanh - trắng - đỏ, nên hình tượng Tam Sơn Quốc Vương được thể hiện với
gương mặt có ba màu trên. Buổi lễ mà phần xác bôi mặt đỏ và mặc trang phục đỏ
là Tam Vương về xác.
Tiếp đến, xác đồng sẽ múa đao, múa kiếm,
múa võ… Ông dùng dao xẻ vào lưỡi cho ra máu, liếm lưỡi vào những mảnh giấy nhỏ
màu vàng cho máu thấm vào, chúng sẽ trở thành những lá bùa được người dân thỉnh
về sau đó. Theo lời kể dân gian, trước đây ngoài xẻ lưỡi lấy máu, xác đồng còn
cắt một phần chót lưỡi cho vào dĩa, rồi lấy cái chung úp lại. Sau nghi lễ, ông
để chót lưỡi vào miệng thì sẽ tự lành.
Sau phần nghi lễ ở chánh điện, xác đồng
sẽ ngồi lên ghế đinh hoặc ghế dao, thanh niên khiêng ghế ông đi diễu hành quanh
xóm, gọi là đi nghinh hoặc Nghinh Ông. Khi đi nghinh, xác đồng sẽ
xỏ một cây sắt từ má nầy trổ sang má kia gọi là xiên lìn hoặc xiên quai,
cầm kiếm trên tay, cổ đeo trái đấm (khối tròn làm từ gỗ và đóng nhiều đinh nhọn
xung quanh). Qua những nơi ô uế (bệnh viện, nghĩa địa, chuồng gia súc…), Ông Bổn
sẽ rời phần xác, phải có người đi bên cạnh đọc bài triệu để mời ông trở lại. Ông Lý Ngọc Ẩn từng là Tào kê (Chủ lễ) miếu Tam Sơn cho biết:
“Ngày đi nghinh, tôi hầu kiệu để có đi tới nhà thương, những chỗ uế trược, ông
dang xác ra, tôi phải triệu ông lại. Có rất nhiều con đường uế trược, thành ra
ông không chịu mà ra xác, mình trục lại” [Tư liệu phỏng vấn 2017]. Ngày nay, đoạn
đường đi nghinh chỉ từ miếu ra bờ sông Hậu rồi quay về.
Để liên hệ mở rộng, chúng tôi giới
thiệu sơ lược về hình thức nhập đồng tại Nhị
Vương miếu ở xã Đa Phước - huyện An Phú, đối diện thành phố Châu Đốc bên kia sông Hậu.
Nhị Vương là một trong Tam Sơn Quốc Vương. Sau năm 1975, sợ chánh quyền mới gây khó dễ, các cụ
cao niên ở địa phương đã sửa lại giai thoại ngôi miếu. Họ kể rằng, Nhị Vương là
ẩn sĩ tên Lương Hà, cùng với hai anh em kết nghĩa cứu giúp Đinh Bộ Lĩnh trong một
lần bị vây bắt. Sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng phong vương cho ba ông.
Miếu Nhị Vương có kiến trúc đơn giản,
nội thất có cấu trúc thờ tự điển hình của người Hoa là bộ ba Thiên Hậu - Ông Bổn - Quan Đế. Những
thần linh thường về xác là Phước Đức Chánh Thần, Tam Sơn Quốc Vương, Quan Đế,
Thiên Hậu… chủ yếu để chữa bịnh cho dân chúng. Khi nhập đồng, phần xác cũng bôi
mặt, xỏ xiên lìn, ngồi ghế đinh và ghế dao… tương tự miếu Tam Sơn. Tuy nhiên, nếu
như miếu Tam Sơn chỉ có một phần xác cố định, thì ở miếu Nhị Vương có tính đồng tham dự của cộng đồng. Bên cạnh
“người được chọn”, hiện tượng nhập xác còn xuất hiện ở nhiều dân thường tham dự
buổi lễ.
Những trạng thái xuất thần được nhận
định là đã đóng vai trò nhứt định trong sự hình thành con người như một thành
viên của cộng đồng. Những nghi thức đó giúp con người đạt tới mối tương quan tối
ưu giữa đơn độc và giao tiếp, như những nhu cầu quan trọng hàng đầu của đời sống
[A. A. Belik 2000:
239]. Qua hình thức nhập đồng của người Hoa, có thể nhận thấy đây là sự vận dụng kết hợp các phương thức khai
thác tiềm năng bí ẩn của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lý và điều chỉnh
hành vi cá nhân, góp phần duy trì sự ổn định cho cộng đồng.
4. Vĩ thanh
Tóm lại, Ông Bổn
là loại hình tín ngưỡng bình dân, vai trò như phúc thần bảo hộ vùng đất sở tại,
nên quan niệm của từng địa phương về vị thần nầy khác nhau. Đối với người Hoa gốc
Triều Châu cư trú ở khu vực Châu Đốc, họ xem Tam Sơn Quốc Vương là Ông Bổn của
cộng đồng mình. Đây là tín ngưỡng bản địa được họ mang theo hành trình di cư đến
nhiều nơi, thể hiện tâm thức hướng về cội nguồn, bởi đó là ba vị thần gắn liền với ba ngọn núi ở quê cũ của họ. Cùng
với tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương, nghi thức nhập đồng cũng đã tồn tại hàng
trăm năm từ khi người Hoa có mặt ở Châu Đốc, trở thành một trong những sắc thái
văn hóa đặc thù, không chỉ góp phần nhận diện cộng đồng Hoa nhóm Triều Châu, mà
còn đóng góp vào kho tàng văn hóa dân gian đa dạng của vùng biên thùy Châu Đốc.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng
trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 63, 2022)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. Nam Hán (917 - 971) quốc gia do Lưu Ẩn thành lập, lãnh thổ
tương ứng vùng cực Nam Trung Quốc hiện nay, kinh đô đóng ở Hưng Vương phủ (nay
là thành phố Quảng Châu - tỉnh Quảng Đông).
2. Giai thoại nầy do người Hoa ở Châu Đốc cung cấp, thực tế đến
nay chúng tôi vẫn chưa tìm được thông tin chính xác về ngôi miếu ở Hà Tiên.
3. Báo chí thường viết “lễ hội hành xác” là không chính xác,
vì “hành xác” chỉ là một hoạt động có mặt trong nhiều lễ hội, chứ không phải
tên của một lễ hội cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. A.
A. Belik (2000), Văn hóa học - Những lý
thuyết nhân học văn hóa, Đỗ Lai Thúy & Hoàng Vinh & Huyền
Giang dịch, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
2. Lâm
Tâm (1994), Người Hoa An Giang, Chi hội
Văn nghệ dân gian An Giang & Hội Văn nghệ Châu Đốc.
3. Lâm
Thanh Quang (2017), “Tam Sơn Quốc Vương”, Bản đánh máy của tác giả.
4. Margaret
Chan (2020), “The Chinese spirit-medium: Ancient rituals and practices in a
modern world”, Biblioasia, Volume 16,
Issue 2.
5. Nguyễn
Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb Thời Đại.
6. Nguyễn
Xuân Nghĩa (1984), “Ý nghĩa xã hội của các tín ngưỡng cộng đồng ở người Hoa
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, trong Nhiều
tác giả, Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng
sông Cửu Long, Viện Văn hóa.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét