Có lẽ, phần đông người cầm bút mong mỏi các tác phẩm của mình không bị bạn đọc lãng quên. Nó đồng nghĩa, chính tác giả cũng không bị lãng quên. Với suy nghĩ nầy, chúng ta cố gắng tìm mọi cách để níu kéo sự tồn tại của tác phẩm đối với người đọc. Nhưng như vậy, chẳng lẽ điều đó là mục đích thôi thúc chúng ta sáng tác hay sao?
Ở đời sống, con người thường đồng hóa bản thân với nhà, xe, điện thoại, quần áo… Chúng ta coi nó là mình, nó tốt thì mình cũng tốt, nó xấu thì mình cũng xấu. Tác phẩm văn chương cũng bị đồng hóa như thế. Tác phẩm là tôi, tác phẩm của tôi, tác phẩm có trong tôi, tác phẩm bị lãng quên là tôi bị lãng quên, tác phẩm được trường cửu là tôi được trường cửu. Để rồi, chúng ta mải miết lao mình vào giấc mơ trường cửu phù phiếm ấy!
Sự thật, trên đời chẳng có gì trường cửu.
Văn hóa Ấn Độ có quan niệm về ba vị thần Brahma, Vishnu, Shiva đáng suy gẫm. Trong đó, Brahma là thần sáng tạo, Vishnu là thần bảo tồn, Shiva là thần hủy diệt. Có sáng tạo thì phải có bảo tồn và hủy diệt. Để rồi chính hủy diệt là tiền đề khai sinh những sáng tạo tiếp theo. Vạn vật không thể không chấp nhận đặc tính hủy diệt nầy. Biến mất và lãng quên là quy luật.
Vậy mà, mấy ai chấp nhận điều đó? Con người chưa bao giờ dừng ôm ấp mong muốn được hiện hữu. Đối với người cầm bút, chúng ta mong muốn những tác phẩm được người đời nhớ lâu, nhờ vậy tên tuổi mình được nhắc đến mãi. Song, sự thật là cái gì cũng có đời sống của nó, tác phẩm cũng vậy, cả con người cũng vậy. Chống lại thời gian là đi ngược quy luật.
Trong văn chương, mỗi thời đại có những nhu cầu khác nhau, mà một tác phẩm gần như chỉ có thể đáp ứng nhu cầu của thời ấy. Vậy là quý lắm rồi. Có những tác phẩm thuộc thời đại trước, ngày nay chúng ta đọc lại vẫn cảm nhận có những giá trị đâu đó, điều nầy không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta càng không thể phủ nhận rằng, tác phẩm đó dường như không còn đáp ứng những nhu cầu của thời đại chúng ta.
Mỗi tác phẩm văn chương như một bông hoa, nở rồi tàn. Có thể, có người nhớ đến nó, dẫu đã tàn. Cũng có thể, chẳng ai còn nhớ đến. Nhưng, có hề chi! Đời sống của nó là như vậy, và nó đã hiến dâng cho đời sống của con người ngần ấy. Chỉ vậy là đủ rồi. Khi nở, bông hoa không mong cầu được người đời nhớ mãi. Khi tàn, bông hoa rụng xuống và trở thành phân bón để nuôi dưỡng hạt mầm khác nở hoa. Giả sử, một bông hoa nào đó nở mãi không tàn, liệu nó có đáng thương lắm không?
Thật ra, người đọc nhớ hay quên một tác phẩm là chuyện bình thường. Điều “bất thường” ở đây là, tác giả quá bận lòng về chuyện tưởng chừng tất nhiên ấy. Nhiều người thường nói, họ sáng tác một tác phẩm vì cảm xúc với một đề tài nào đó trong cuộc sống. Song, nếu thật sự như vậy thì giá trị của việc sáng tác nằm ở lúc chúng ta đang viết, vì chính khi đó chúng ta sống trọn vẹn với cảm xúc của mình. Trái lại, người cầm bút thường nặng lòng với những điều đằng sau trang viết: Khi ra đời tác phẩm như thế nào, có ai quan tâm không, có ai nhớ đến tác giả không? Rõ ràng, lúc cảm hứng với một đề tài, chúng ta đâu nghĩ đến những câu hỏi đó. Vậy tại sao khi viết xong, chúng ta lại băn khoăn? Và nếu cứ nhọc lòng với những điều phù phiếm ấy, liệu chúng ta có thật sự cầm bút vì cảm xúc nữa hay không?
Trước đây, các nhà văn đã tranh luận dai dẳng rằng họ sáng tác vì nghệ thuật hay vì nhân sinh. Thế nhưng phải chăng, đối với không ít người, chúng ta sáng tác vì cá nhân, vì bản thân, vì chính mình. Bởi, nếu sáng tác vì nghệ thuật hay vì nhân sinh, chúng ta cứ để cho tác phẩm sống trọn vẹn đời sống vốn có, dù “trường thọ” hay “đoản thọ”. Hà cớ phải ước vọng, phải can thiệp, phải tiếc nuối?
Ý thức được: “Ta còn để lại gì không? / Kìa non đá lở, này sông cát bồi”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương mạnh mẽ tuyên bố: “Vần điệu thi nhân chỉ còn là rơm rác / Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác”, bởi lẽ: “Một phen đã nín cung đàn / Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm”. Quả thế, có biết bao nhạc công tài ba, khi ra đi không để lại gì. Bởi, cái mà họ cống hiến cho cuộc đời là khoảnh khắc bản nhạc được cất lên, không phải lúc nó kết thúc. Họ không sợ tác phẩm bị lãng quên, bởi nó được lãng quên từ bản chất.
Sự sống của bông hoa ở lúc nó đang nở, không phải ở lúc nó đã tàn. Sự sống của bản nhạc ở lúc nó đang cất lên, không phải ở lúc nó đã kết thúc. Sự sống của tác phẩm văn chương ở lúc nó đang được viết ra, không phải ở lúc nó đã được hoàn tất. Xong xuôi, hoàn tất, kết thúc, đồng nghĩa với đã tàn, đã chết, đã hết. Tác phẩm chết từ khi nó được viết xong. Sao chúng ta không ung dung trải nghiệm “sự sống”, lại lo toan chăm sóc “xác chết”?
Người cầm bút hãy sống với phút giây cảm nghiệm cùng tác phẩm, chứ không phải sống với những thứ đằng sau tác phẩm. Điều mà chúng ta có thể làm là hòa nhịp với tác phẩm ngay trong lúc nó đang diễn ra, vậy là đủ. Vướng bận làm chi chuyện mất hay còn!
Sự lãng quên chẳng có gì đáng sợ, nhưng nó trở nên đáng sợ đối với những ai không chấp nhận quy luật của thời gian. Khi đã chấp nhận quy luật của thời gian, con người có thể bình thản với sự lãng quên. Thậm chí, chính người cầm bút có thể chủ động lãng quên tác phẩm của mình, trước khi cuộc đời lãng quên nó. Như một bài thơ bốn câu rất đặc biệt: “Viết bài thơ trên cát / Cơn sóng vỗ xóa đi / Vô tình đâu nhớ được / Mình viết bài thơ gì” (Viên Minh). Đâu phải tác giả “hờ hững” đến độ chẳng thể nhớ bài thơ mà mình đã viết ra, mà quan trọng là tác giả không “mắc kẹt” vào nó. Bởi, lãng quên là mở ra khởi đầu mới, Shiva không thể tách rời khỏi Brahma.
Hãy chấp nhận lãng quên và chủ động lãng quên.
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Tạp chí Văn nghệ Tiền Giang, số 115, 2024)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét