Ngày 4/12/2024
tại Paraguay, UNESCO ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam (thành phố Châu Đốc,
tỉnh An Giang) là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là di
sản thứ hai ở Nam Bộ được danh hiệu nầy nhưng là di sản đầu tiên thuộc một tỉnh
cụ thể. Trước đó, Đờn ca tài tử được ghi danh vào năm 2013 cho 21 tỉnh, thành
phố phía Nam.
Lễ hội Vía Bà nói riêng và tín ngường Bà Chúa Xứ Núi Sam nói chung là thực hành văn hóa đặc thù ở vùng biên giới Tây Nam, có sức ảnh hưởng và lan tỏa lớn. Hiện nay, đây là lễ hội thu hút khách hành hương đông nhất Nam Bộ, được công nhận là Lễ hội cấp quốc gia vào năm 2001, trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014. Bên cạnh niềm tin tâm linh, xoay quanh tín ngưỡng nầy có nhiều yếu tố văn hóa khá đặc biệt.
1. Danh xưng Bà Chúa Xứ
Danh xưng Bà
Chúa Xứ bắt nguồn từ Po Yang Inư Nagar (tạm dịch: Thần Mẹ Xứ Sở) của người Chăm
ở miền Trung. Song, vị thần nầy có nguồn gốc sâu xa từ nữ thần Uma (vợ thần
Shiva) trong văn hóa Ấn Độ, được người Chăm tiếp nhận và bản địa hóa. Đến với
người Việt, Po Yang Inư Nagar được tiếp nhận và phiên âm chữ Hán là Thiên Y A
Na. Ngoài ra trong dân gian, các danh xưng Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa
Xứ, Thượng Động Cố Hỷ… là những “phiên bản” Việt hóa của Po Yang Inư Nagar.
Tuy nhiên, đây
chỉ là nguồn gốc về danh xưng. Trên bình diện niềm tin và thực hành tín ngưỡng,
người Việt ở Nam Bộ hầu như không cho rằng mình thờ cúng vị thần nào đó gốc
Chăm hay gốc Ấn. Tại đây, Bà Chúa Xứ là một đối tượng tín ngưỡng nữ thần, có
vai trò bảo hộ cư dân trong một khu vực nào đó. Dân gian quan niệm rằng, Bà là
vị thần phúc hậu, nhân từ, luôn chở che và giúp đỡ con người. Bà Chúa Xứ được
xem như “mẹ” của vùng đất, nên có thêm mỹ hiệu chữ Hán là “Chúa Xứ Thánh Mẫu”.
Một số người
còn nhận định, Bà Chúa Xứ có quyền lực lớn hơn Thành Hoàng Bổn Cảnh, vì Thành
Hoàng là phúc thần bảo hộ mỗi làng xã cụ thể, còn Bà Chúa Xứ cai quản vùng đất
rộng lớn hơn (có thể gồm nhiều làng xã) [Tư liệu điền dã 2019]. Dĩ nhiên, đây
là quan niệm dân gian, không thể chứng minh rạch ròi. Nhưng về phía triều đình,
Thành Hoàng Bổn Cảnh có mặt trong hệ thống thần linh mang tính điển chế và được
sắc phong, còn Bà Chúa Xứ là thần linh dân gian, lai lịch và công trạng không
rõ ràng, không có sắc phong. Trong khi đó, vốn có cùng cội nguồn với Bà Chúa Xứ,
Thiên Y A Na là thần linh quan trọng được sắc phong với thứ bậc cao hơn Thành
Hoàng. [1]
Có nhiều Bà
Chúa Xứ khác nhau ở Tây Nam Bộ, thường gắn với địa danh một khu vực cụ thể. Chẳng
hạn, tỉnh An Giang có Bà Chúa Xứ Bàu Mướp (Tịnh Biên), Bà Chúa Xứ Cô Tô (Tri
Tôn), Bà Chúa Xứ Tây Phú (Thoại Sơn), Bà Chúa Xứ Vàm Xáng Cây Dương (Châu Phú)… Đa phần các miếu Bà
Chúa Xứ thường hình thành lâu đời. Như vậy, Bà Chúa Xứ Núi Sam là một danh xưng
thần linh cụ thể, trong tín ngưỡng Bà Chúa Xứ nói chung, chứ không phải Bà Chúa
Xứ các nơi khác là “phiên bản” của Bà Chúa Xứ Núi Sam.
Tuy nhiên về
sau, do ảnh hưởng của Bà Chúa Xứ Núi Sam, một số nơi có xu hướng tích hợp vị thần
nầy vào tín ngưỡng sở tại. Điển hình, miếu Bà Ngũ Hành ở Nhà Bè được gọi là “miếu
Bà Châu Đốc 2”. Dân gian xem miếu là một “chi nhánh” của Bà Chúa Xứ Núi Sam,
người nào không tới được Châu Đốc thì có thể đến miếu này cúng bái [Tư liệu điền
dã 2019]. Đây cũng là một dạng thức sáng tạo mang đậm tính dân gian, thể hiện sự
cởi mở của người Nam Bộ, kể cả trong đời sống tâm linh. Song, trường hợp này
thường xuất hiện muộn về sau.
2. Tượng đá cổ được tìm thấy ở núi Sam
Có nhiều nguyên
nhân khiến miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam nổi tiếng, nhưng chắc hẳn tượng Bà là một
trong những nguyên nhân quan trọng. Pho tượng vừa đồ sộ, vừa thẩm mỹ, không chỉ
là điểm nhấn của ngôi miếu, mà còn thu hút sự hướng mắt và hướng lòng của khách
hành hướng khi đến đây.
Tượng cao khoảng
1,25 mét và nặng trên 1 tấn. Chất liệu của tượng là đá, nhưng loại đá gì? Đến
nay, giới nghiên cứu chưa thống nhứt về loại đá, có người cho là đá son, có người
cho là sa thạch, diệp thạch… nhưng đều khẳng định không phải là loại đá có mặt ở
vùng Thất Sơn [Thạch Phương và nnk 2014: 124]. Bức tượng vốn là tượng nam thần,
chân trái chống lên, chân phải xếp bằng, tay trái đặt trên đầu gối, tay phải
choãi ra sau. Giới nghiên cứu ngày trước cho rằng đây là tượng thần Vishnu [Trịnh
Bửu Hoài 2010: 12], nhưng các nghiên cứu về sau cho rằng đây là tượng thần
Shiva [Vĩnh Thông 2021: 97].
Truyền thuyết về
viêc phát hiện tượng Bà đã phổ biến. Đó là, người dân phát hiện pho tượng trên
núi Sam, nhưng không thể khiêng xuống, Bà nhập đồng và dạy rằng cần chín cô gái
đồng trinh mới có thể khiêng lên nổi, dân làng làm theo và có thể mang bức tượng
xuống núi dễ dàng. Tuy nhiên, đây chỉ là giai thoại. Có những chi tiết chưa thỏa
đáng trong câu chuyện nầy, liên quan đến địa hình ngọn núi và năng lực con người,
chúng tôi đã chỉ ra trong một nghiên cứu trước đây [Vĩnh Thông 2021: 98-101].
Mặt khác, dân
gian quan niệm rằng núi là chốn linh thiêng, nơi con người tìm đến chiêm bái,
hành hương, vãn cảnh… Do đó, việc xây cất các công trình tâm linh trên núi là
xu hướng khá phổ biến. Đặc biệt, địa hình đồng bằng sông Cửu Long vốn hiếm núi,
nên vai trò của núi càng tăng cao. Vậy, nếu phát hiện tượng trên núi Sam, tại sao
người dân không thờ cúng tại đó để tăng thêm phần linh thiêng, mà vất vả khiêng
xuống? Trong khi đó, núi Sam tương đối nhỏ (cao 228 mét và chu vi 5.200 mét),
khách hành hương có thể lên xuống núi dễ dàng.
Tạm gác qua niềm
tin dân gian, nhìn từ góc độ thực tiễn, người viết nêu giả thuyết rằng pho tượng
có thể được tìm thấy ngay vị trí ngôi miếu hiện nay, hoặc mang từ nơi khác về rồi
đặt ở đó, thay vì khiêng từ núi Sam xuống.
Cần nhớ lại, thời
điểm phát hiện tượng là thập niên 1820, khi đó Thoại Ngọc Hầu là Trấn thủ Vĩnh
Thanh, kiêm quản Hà Tiên trấn, đồng thời Bảo hộ Cao Miên. Với quyền lực lớn, địa
bàn quản lý rộng, ông là người có khả năng “huyền thoại hóa” một pho tượng vô
danh thành một tín ngưỡng nổi bật ven biên giới. Cũng thập niên đó, ông chuẩn bị
nơi an nghỉ cuối đời cho mình bên triền núi Sam, chếch góc với miếu Bà Chúa Xứ.
Ngoài câu chuyện
chín cô gái đồng trinh nêu trên, dân gian còn truyền tụng nhiều dị bản về quá
trình phát hiện tượng Bà. Trong đó, có chuyện rằng trên đường đi dẹp loạn vùng
biên giới, Thoại Ngọc Hầu phát hiện bức tượng nầy và mang về lập miếu thờ ở núi
Sam [Trịnh Bửu Hoài 2010: 54]. Dĩ nhiên, đây cũng là giai thoại,
chưa hẳn đúng hoàn toàn. Song, qua đó cho thấy giả thuyết mà người viết đưa ra
không phải vô căn cứ.
Ngoài ra, hai sự
kiện xảy ra cuối thế kỷ XX góp phần củng cố cho giả thuyết nầy. Một là vào thập
niên 1970, trong quá trình trùng tu miếu, nhân công đào đất phát hiện những phiến
yoni kích thước nhỏ, ngày nay được đặt trong nhà trưng trưng bày của miếu. Qua
đó cho thấy, khuôn viên miếu có thể là một dấu tích của văn hóa Óc Eo. Hai là vào
thập niên 1980, người ta công bố phát hiện một bệ đá trên núi Sam, nơi đặt tượng
khi xưa. Tại sao sau khoảng 160 năm phát hiện tượng, bệ đá mới được phát hiện?
Có khả năng bệ đá được mang lên núi, nhằm “hợp thức hóa” truyền thuyết.
3. Đa văn hóa trong thờ phượng và lễ hội
Từ khi bức tượng
được người Việt thờ phượng, Bà Chúa Xứ Núi Sam trở thành một hình thái tín ngưỡng
dân gian, với đặc điểm nổi bật là sự giao thoa văn hóa đa tộc người.
Trước hết, tượng
nam thần Ấn giáo trở thành Bà Chúa Xứ, vì sao? Theo chúng tôi, có mấy lý do chủ
đạo. Một là, kỹ thuật chế tác thô sơ, chưa thể hiện sắc sảo các đường nét trên
gương mặt, lại thêm trên đầu có mái tóc gợn sóng, phần thân có ngực nở và bụng phệ…
khiến người nhìn vào dễ nhầm lẫn đây là nữ thần. Hai là, tâm thức Mẫu sâu đậm
trong văn hóa Việt, cư dân có nhu cầu tín ngưỡng nữ thần, xem đó như người mẹ
tâm linh, có vai trò bảo vệ cho con người được bình an trong cuộc sống.
Vào thập niên
1940, Ban Quý tế miếu Bà đề xuất tô điểm gương mặt bức tượng cho giống với người
phụ nữ phúc hậu. Họ thuê thợ khéo tay từ Chợ Lớn về đắp mặt, sơn màu da, gắn
pha lê vào mắt… [Liêm Châu 2011: 6]. Nếu trước đó toàn bộ bức tượng có màu xanh
đen nguyên thủy của đá, thì giờ đây phần mặt nhiều màu sắc, còn phần thân không
thay đổi.
Nhìn vào gương
mặt Bà và áo mão thêu rồng phượng, chúng ta nhận thấy sự khác biệt rõ rệt với hình
ảnh các Mẫu và nữ thần ở miền Bắc hay miền Trung, nhưng khá giống diện mạo
Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa. Chúng tôi cho rằng, khi vào Nam, hình ảnh Mẫu
và nữ thần từ cố hương đã phần nào phai nhạt trong tâm thức cư dân, còn Bà Chúa
Xứ là vị thần tương đối mới mẻ lại chưa định hình diện mạo rõ ràng trong buổi đầu.
Trong khi đó, người Hoa đã xây dựng các miếu thờ Thiên Hậu khắp đồng bằng sông
Cửu Long. Theo thống kê chưa đầy đủ của Nguyễn Ngọc Thơ vào năm 2017, Tây Nam Bộ
có tổng cộng 74 miếu thờ Thiên Hậu [Nguyễn Ngọc Thơ 2017: 73]. Sự lan tỏa đó
khiến hình tượng Thiên Hậu trở nên quen thuộc với cư dân nơi đây. Không chỉ Bà
Chúa Xứ, mà hầu như các nữ thần ở Nam Bộ cũng đều được tạo hình gần giống với
Thiên Hậu. Ngoài ra, việc thuê thợ từ Chợ Lớn về điểm tô gương mặt Bà cũng phần
nào dẫn đến sự tương đồng về diện mạo của hai vị thần, bởi phần lớn thợ khéo
tay về mỹ thuật ở Chợ Lớn là người Hoa.
Tiếp đến, hai
bên tượng Bà có bàn thờ Cô biểu trưng bằng yoni (sinh thực khí nữ) và bàn thờ Cậu
biểu trưng bằng linga (sinh thực khí nam), cho thấy sự ảnh hưởng của văn hóa
Chăm và Ấn giáo. Trước bàn thờ Bà Chúa Xứ có bàn thờ Hội Đồng, cặp theo hai bên
vách có bàn thờ Tiền Hiền và Hậu Hiền, đây là ba bàn thờ theo cấu trúc ở đình
làng của người Việt. Ngoài sân có miễu thờ Neak Tà - vị thần bảo hộ trong tín
ngưỡng dân gian Khmer.
Về lễ hội, nếu
Vía Bà Thiên Hậu diễn ra vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, thì Vía Bà Chúa Xứ Núi
Sam diễn ra sau đó đúng một tháng, bắt đầu vào ngày 23 và kết thúc vào ngày 27
tháng 4. Trong diễn tiến nghi thức, lễ Vía Bà thực hiện như lễ Kỳ yên ở các
đình làng Nam Bộ, với các nghi thức Thỉnh sắc, Túc yết, Xây chầu, Đại bội,
Chánh tế, Hồi sắc. Ngoài ra, do ở đây có bức tượng, nên có thêm nghi thức Mộc dục,
tức là “tắm” tượng. Từ năm 2001 đến nay, miếu Bà tổ chức thêm nghi thức Phục hiện,
mô phỏng hình ảnh đoàn người rước tượng Bà từ núi Sam xuống miếu.
Khảo sát lễ hội
Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, Nguyễn Phương Thảo [1997: 204] nhận định: “Nếu tạm đặt
ra ngoài phần lễ Mộc dục, lễ hội Bà Chúa Xứ thực chất là một lễ Kỳ yên.” Trong
khi đó, Nguyễn Hữu Hiếu [2010: 237] cũng đánh giá lễ hội này “khác xa với nghi
thức cúng Bà ở Điện Bà (Tây Ninh) và các miếu Bà Chúa Xứ khác ở Nam Bộ”. Tại
sao có hiện tượng nầy?
Ở trung tâm
thành phố Châu Đốc có đình thần Châu Phú là nơi thờ phượng Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh. Dưới triều Nguyễn, Ban Quý tế nhận thấy nghi lễ cổ truyền dù đã có,
nhưng “tam sao thất bổn” qua thời gian, nên cử người ra kinh đô Huế học tập nghi
lễ, nhằm chuẩn hóa nghi lễ tại địa phương. Sau đó, hệ thống nghi lễ từ đình
Châu Phú được nhân rộng ra các đình miếu vùng Châu Đốc, trong đó có miếu Bà
Chúa Xứ. Đó là lý do vì sao lễ Vía Bà ở núi Sam giống với lễ Kỳ yên ở các đình
làng, nhưng khác với lễ hội của các miếu thờ nữ thần ở Nam Bộ, cũng khác với lễ
Vía Bà ở núi Bà Đen (Tây Ninh) dù đều là tín ngưỡng nữ thần vùng đồi núi.
Một đặc điểm nổi
bật nữa trong lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, mà không tìm thấy ở các lễ hội
tương tự, đó là sự tích hợp yếu tố lịch sử, gắn với danh tướng Thoại Ngọc Hầu.
Vì Bà Chúa Xứ không được triều đình sắc phong, nên nghi thức Thỉnh sắc và Hồi sắc
trong lễ hội không phải là sắc phong Bà Chúa Xứ, mà là bài vị Thoại Ngọc Hầu,
hai vị phu nhân và các quan quân cựu trào. Trong văn tế Túc yết và Chánh tế
cũng xướng danh các vị ấy. Nghi thức đó được xem là đón rước các vị đến miếu
tham dự lễ, đồng thời nhắc nhớ thế hệ con cháu về công đức của tiền nhân.
4. Thay lời kết
Tín ngưỡng Bà
Chúa Xứ Núi Sam là đề tài được giới nghiên cứu quan tâm khai thác đã khá nhiều.
Do đó, trong phạm vi nghiên cứu nầy, tác giả không trình bày những thông tin đã
phổ biến như lịch sử xây dựng và trùng tu ngôi miếu, các nghi thức trong lễ hội…
Thay vào đó, chúng tôi chỉ đề cập một số góc nhìn mới, nhằm góp phần làm rõ
thêm những đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng nầy.
Từ bối cảnh lịch
sử và đặc trưng đa văn hóa, ngôi miếu và lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam đã trở thành
địa chỉ tâm linh thu hút khách hành hương hàng đầu ở Nam Bộ và sức ản hưởng
ngày càng lan tỏa mạnh mẽ. Năm 2024, tỉnh An Giang đón trên 9 triệu lượt khách
tham quan du lịch. Trong đó, miếu Bà Chúa Xứ đón gần 5,5 triệu lượt khách. Tính
riêng mùa lễ hội vào cuối tháng 4 âm lịch, di tích nầy đón khoảng 400 ngàn lượt
khách.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí
Thất Sơn, số 316, 2025)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. Thiên Y A Na là Thượng đẳng thần, còn Thành Hoàng đa
phần là Hạ đẳng thần, một số là Trung đẳng thần, hiếm có trường hợp là Thượng đẳng
thần.
2. Thôn Châu Phú xưa, hiện nay tách thành hai phường Châu Phú A và Châu
Phú B.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Liêm Châu (2011), Kỳ tích núi Sam, Tập 1, Nxb Văn hóa Văn nghệ.
2. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long,
Nxb Thời đại.
3. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo,
Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Ngọc Thơ (2017), Tín ngưỡng Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn
Quang Vinh (2014), Văn hóa dân gian người
Việt ở Nam Bộ, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
6. Trịnh Bửu Hoài (2010), Lịch sử xây dựng và phát triển miếu Bà Chúa
Xứ núi Sam, Nxb Phương Đông.
7. Vĩnh Thông (2021), “Miếu Bà Chúa Xứ
núi Sam: Một số vấn đề trao đổi”, trong Dấu
ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét